TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐB, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 98/2024/HS-ST NGÀY 05/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 05 tháng 4 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ĐB, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 74/2024/TLST-HS ngày 31 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2024/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 02 năm 2024; Quyết định hoãn phiên toà số: 18/2024/HSST-QĐ ngày 06 tháng 3 năm 2024 đối với Bị cáo:
1. Họ và tên: Sộng Khua C; sinh năm: 1972, tại tỉnh Sơn La; Nơi ĐKHKTT: Bản H, xã S, huyện S C, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: không; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Sộng Giống S; sinh năm: 1939; Con bà: Vừ Thị D (đã chết); Vợ là Vừ Thị S: sinh năm 1973 (đã ly hôn). Bị cáo có 04 người con, con lớn nhất sinh năm 1997, con nhỏ nhất sinh năm 2005. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Bị cáo chưa bị xử lý vi phạm hành chính, chưa bị Tòa án nào xét xử.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/12/2023, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).
* Người phiên dịch cho Bị cáo: Ông Mùa A P; sinh năm: 1989; Địa chỉ: Bản Xá Nhù, xã HT, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên (có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 12 giờ 00 phút ngày 06/12/2023, Sộng Khua C đi bộ một mình từ chỗ làm thuê tại Bản N, xã P, huyện ĐBĐ, tỉnh Điện Biên mục đích tìm mua Heroine để sử dụng, khi đi Bị cáo mang theo số tiền 100.000 đồng. Đến khu vực đường thuộc bản Ban, xã M N, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên, Bị cáo gặp một người đàn ông dân tộc Khơ Mú, khoảng 30 tuổi không biết tên địa chỉ. Qua trao đổi nói Cyện Bị cáo hỏi người đàn ông: “Có heroine bán không, bán cho 100.000 đồng?”, người đàn ông nói “có đưa tiền đây tao bán cho?”. Nghe vậy Bị cáo lấy số tiền 100.000 đồng từ trong người ra đưa cho người đàn ông, người đàn ông cầm tiền rồi đưa cho Bị cáo 01 gói được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng, miệng gói được hơ lửa hàn kín, Bị cáo cầm lấy xem bên trong có Heroine rồi đồng ý mua, trao đổi mua bán Heroine xong, Bị cáo cất gói Heroine ở bên trong bao quy đầu dương vật rồi đi bộ tìm nơi sử dụng. Khi Bị cáo đi được một đoạn đường, Bị cáo ngồi nghỉ giữa đường thì bị tổ Công tác Đội CSĐTTP về Kinh tế và ma tuý - Công an huyện ĐB phối hợp với Tổ 5 kế hoạch 1266, Công an tỉnh Điện Biên và Công an xã MN phát hiện, thu giữ tại bao quy đầu dương vật của Bị cáo 01 gói được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng, miệng gói được hơ lửa hàn kín, bên trong có các cục bột màu trắng nghi Heroine, ngoài ra không phát hiện thu giữ gì khác. Bị cáo khai nhận mua ma túy về để sử dụng. Tổ công tác mời người chứng kiến vụ việc rồi đưa Bị cáo cùng tang vật chứng về Trụ sở Ủy ban nhân dân xã M N, huyện ĐB tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng. Sau đó Bị cáo bị áp giải về Trụ sở Cơ quan CSĐT Công an huyện ĐB để tiếp tục điều tra làm rõ.
Ngày 06/12/2023 tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ĐB, tỉnh Điện Biên đã tiến hành cân xác định khối lượng số vật chứng thu giữ của Sộng Khua C như sau: Số cục bột màu trắng nghi Heroine có khối lượng là: 0,31 gam gửi toàn bộ giám định.
Tại bản kết luận giám định số: 04/KL- KTHS ngày 13/12/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng được gửi đi từ vật chứng thu giữ của Sộng Khua C gửi giám định là chất ma túy: loại Heroine. Vật chứng hoàn lại sau giám định là 0,24 gam.
Tại bản cáo trạng số: 17/CT-VKSHĐB ngày 30 tháng 01 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB truy tố bị cáo Sộng Khua C về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB, tỉnh Điện Biên giữ quyền công tố, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo: Từ 01 năm 04 tháng đến 01 năm 07 tháng về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với Bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS.
Tịch thu tiêu hủy: 0,24 gam Heroine là vật chứng hoàn lại sau giám định.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho Bị cáo.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố.
Lời nói sau cùng của Bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho Bị cáo để Bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội của Bị cáo:
Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Sộng Khua C khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định, Kết luận điều tra, các bản cung, biên bản ghi lời khai, bản tự khai có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với Bị cáo, có đủ cơ sở khẳng định: Vào hồi 17 giờ ngày 06/12/2023 tại khu vực bản Ban, xã M N, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên. Sộng Khua C đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa 0,31 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, vi phạm pháp luật. Hành vi nêu trên của Bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận Cyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
… c)....Heroine....có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam".
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, khẳng định Viện kiểm sát truy tố Bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều luật đã viện dẫn ở trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không bị oan sai.
[2] Về tính chất của vụ án: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi cất giấu trái phép chất ma túy nhằm mục đích để sử dụng của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trên địa bàn. Mặt khác ma túy là hiểm họa của loài người, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, Bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật. Chính vì vậy Bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với Bị cáo để giáo dục Bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa Cng cho toàn xã hội.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của Bị cáo:
- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.
- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Về nhân thân: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại Sơn La, không được đi học, không có công ăn việc làm ổn định. Năm 1996, Bị cáo kết hôn với chị Vừ Thị Sua; sinh năm 1973, đến năm 2008 Bị cáo và chị Sua ly hôn. Bị cáo có 04 người con, con lớn nhất sinh năm 1997, con nhỏ nhất sinh năm 2005. Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2010 cho đến ngày bị bắt.
Việc đề nghị áp dụng hình phạt của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ nên HĐXX cần chấp nhận.
[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251/BLHS, ngoài hình phạt chính “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xong xét hoàn cảnh gia đình Bị cáo khó khăn, Bị cáo không có công ăn việc làm ổn định nên không có khả năng thi hành. Vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Bị cáo.
[5] Về vật chứng vụ án gồm: 0,24 gam Heroine là vật chứng còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[6] Các vấn đề khác:
Trong quá trình điều tra Bị cáo đã khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là do Bị cáo mua của một người đàn ông dân tộc Khơ Mú khoảng 30 tuổi (không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu). Do Bị cáo không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan CSĐT Công an huyện ĐB không có đủ cơ sở, tài liệu làm căn cứ để điều tra xác minh làm rõ. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đề cập xử lý trong vụ án này.
[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng:
Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Cơ quan truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.
[8] Về án phí: Tại phiên tòa Bị cáo xin HĐXX xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm cho Bị cáo là dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã có điều kiện Kinh tế- Xã hội đặc biệt khó khăn. Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho Bị cáo.
[9] Về kháng cáo: Bị cáo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Sộng Khua C phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Xử phạt Bị cáo: 01 năm 07 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (06/12/2023).
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Bị cáo.
2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS:
* Tịch thu tiêu hủy: 0,24 gam Heroine là vật chứng còn lại sau giám định.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/01/2024 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện ĐB và Chi cục thi hành án dân sự huyện ĐB, tỉnh Điện Biên).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho Bị cáo.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 05/4/2024).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 98/2024/HS-ST
Số hiệu: | 98/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/04/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về