Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 98/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YD, TỈNH BG

BẢN ÁN 98/2023/HS-ST NGÀY 22/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện YD, tỉnh BG xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 102/2023/TLST-HS ngày 25/10/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102/2023/QĐXXST-HS ngày 08/11/2023, đối với bị cáo:

TTH, sinh năm 1977; nơi cư trú: Tổ dân phố 3, TTNB, huyện YD, tỉnh BG; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hoá: 9/12; con ông TVN, sinh năm 1939 (đã chết) và bà NTN, sinh năm 1941 (đã chết); vợ là OTL, sinh năm 1980; bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2001; tiền án, tiền sự, nhân thân: không có; Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/9/2023 đến nay, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ công an huyện YD. (Có mặt)

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông HNH, sinh năm 1978; địa chỉ: Tổ dân phố 3, TTNB, huyện YD, tỉnh BG. (Vắng mặt)

- Người chứng kiến:

+ Anh NVQ, sinh năm 1991; địa chỉ: Tổ dân phố MD, TTN, huyện VY, tỉnh BG. (vắng mặt)

+ Anh PL, sinh năm 1982; địa chỉ: Số nhà 16, đường NVC, phường TP, thành phố BG, tỉnh BG. (vắng mặt)

+ Anh DTN, sinh năm 1970; địa chỉ: Thôn N, xã NH, huyện YD, tỉnh BG.

(vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do bị nghiện ma túy nên TTH đi đến thành phố BG tìm mua ma tuý về sử dụng. Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 09/9/2023, H mượn chiếc xe mô tô biển kiểm soát 98H9-02xx của anh HNH đi đến khu vực cầu MD, thành phố BG tìm mua ma tuý. Đến nơi, H hỏi một người đàn ông không quen biết đang đứng ở rìa đường là “có ma tuý bán không” thì người đàn ông này trả lời là “có”. H bảo người đàn ông này bán cho 500.000 đồng ma tuý heroin và 100.000 đồng ma tuý hồng phiến rồi đưa cho người đàn ông này 600.000 đồng. Người đàn ông này cầm tiền, bảo H đợi, khoảng 05 phút sau thì quay lại đưa cho H 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng và nói bên trong có 05 gói ma túy Heroin và 02 viên ma túy hồng phiến. H cầm lấy vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong đựng ma tuý cất vào túi áo ngực bên trái đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về. Đến khoảng 08 giờ 20 phút cùng ngày, khi H đi đến khu vực đối diện với cây xăng SK thuộc địa phận thôn Nội, xã NH, huyện YD thì bị tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an tỉnh BG phối hợp với cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện YD kiểm tra phát hiện H đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tang vật thu giữ gồm: Thu trong túi áo ngực H đang mặc 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong đựng 01 gói giấy màu trắng, mở ra bên trong có:

05 gói giấy bạc mặt ngoài màu trắng, mặt trong màu vàng, bên trong mỗi gói đều đựng chất bột màu trắng nghi là ma túy và 01 túi nilon màu trắng có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu xanh, bên trong đựng 02 viên nén màu hồng đỏ, nghi là ma túy tổng hợp nên đã niêm phong trong 01 phong bì thư ký hiệu “QT”; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Suzuki Viva, biển kiểm soát 98H9-02xx; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, màu xanh đen.

Kết luận giám định số 1676/KL-KTHS ngày 11/9/2023, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh BG kết luận: Trong 01 (một) phong bì mặt trước có ký hiệu “QT” đã được niêm phong gửi giám định: trong 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng: Chất cục bột màu trắng đựng trong 05 gói giấy bạc mặt ngoài màu trắng, mặt trong màu vàng là ma túy, có tổng khối lượng 0,364 gam, loại Heroine (Heroin), 02 viên nén màu hồng đỏ đựng trong 01 túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa nhựa, viền màu xanh là ma tuý, có tổng khối lượng 0,190 gam, loại Methamphetamine.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo; 01 phong bì ký hiệu “QT” bên trong có vỏ bao gói mẫu sau giám định, chất cục bột màu trắng là ma túy Heroin có khối lượng 0,283 gam và viên nén hồng đỏ là ma túy Methamphetamine có khối lượng 0,166 gam hoàn lại sau giám định được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện YD để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại cơ quan điều tra, TTH đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 100/CT-VKSYD ngày 23/10/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện YD đã truy tố TTH về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo H đã khai nhận toàn bộ nội dung, diễn biến hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Hội đồng xét xử đã công bố lời khai của những người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa. Bị cáo không có ý kiến gì.

Sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện YD giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo TTH từ 15 tháng đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 09/9/2023, miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo; Áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 của Bộ luật Hình sự: Trả lại bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án; tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư ký hiệu “QT” dán kín, niêm phong hoàn lại sau giám định; Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội: buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nhất trí với nội dung bản luận tội của Kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận gì.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật và rất hối hận, bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm và sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an huyện YD và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện YD và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng trình tự, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, có đủ cơ sở xác định các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến vắng mặt nhưng đã có đầy đủ lời khai trong hồ sơ, sự vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án, căn cứ các điều 292, 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người trên.

[3] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét khách quan, toàn diện nội dung vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 08 giờ 20 phút ngày 09/9/2023, tại khu vực đối diện với cây xăng SKthuộc địa phận thôn Nội, xã NH, huyện YD, tỉnh BG, TTH có hành vi tàng trữ trái phép 0,364 gam ma tuý heroine và 0,190 gam ma tuý Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an tỉnh BG phối hợp với cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện YD bắt quả tang thu giữ tang vật. Tổng khối lượng ma tuý là 0,554 gam.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện YD, tỉnh BG truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản trên là có căn cứ.

[4] Khi quyết định về tội danh, hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

[4.1] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp phạm tội nghiêm trọng, không chỉ xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý mà còn bởi ma tuý là chất gây nghiện làm băng hoại sức khoẻ của con người, là hiểm hoạ của đại dịch HIV và là nguồn gốc dẫn đến biết bao loại tội phạm khác. Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân đồng thời gây mất trật tự trị an xã hội. Do vậy, cần phải xử nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự.

[4.2] Xét về nhân thân: bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[4.3] Về tình tiết tăng nặng: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[4.4] Về tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có bố là TVN được tặng thưởng “Huy chương kháng chiến” hạng nhất và “Huân chương chiến sĩ vẻ vang” hạng ba nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Từ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội như trên, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo đồng thời cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật. Không chỉ giúp giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích và biết tuân thủ pháp luật mà còn răn đe, phòng ngừa chung đối với loại tội này trong xã hội. Tuy nhiên, căn cứ vào nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Hội đồng xét xử thấy cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo. Việc xử phạt bị cáo với mức hình phạt trong khung đề nghị như Kiểm sát viên đề nghị tại phiên tòa là phù hợp, có căn cứ pháp luật.

[5] Ngoài hình phạt chính, lẽ ra Hội đồng xét xử còn áp dụng khoản 5 điều 249 của Bộ luật Hình sự để phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo sung quỹ nhà nước. Tuy nhiên, do bị cáo là lao động tự do, không có công việc và thu nhập ổn định, sau khi phạm tội đã bị tạm giam, không có điều kiện đảm bảo thi hành án đối với khoản tiền phạt. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án gồm: Đối với 01 phong bì ký hiệu “QT” bên trong có vỏ bao gói mẫu sau giám định, có 0,283 gam ma túy Heroin và 0,166 gam ma túy Methamphetamine hoàn lại sau giám định, đây là vật nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu để tiêu huỷ là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo khai không biết tên, tuổi, địa chỉ của người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra làm rõ được.

[8] Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 98H9-02xx: quá trình điều tra xác định là của của anh HNH. Anh Hiền cho bị cáo mượn xe mà không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý đối với anh Hiền là phù hợp. Ngày 29/9/2023, Cơ quan điều tra trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh Hiền là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9] Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo: quá trình điều tra xác định là của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo là phù hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[10] Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là phù hợp với khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội.

[11] Ngoài ra, cần áp dụng Điều 331, Điều 333, khoản 1 Điều 337 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tuyên quyền kháng cáo, kháng nghị đối với bản án.

Từ những phân tích đánh giá như trên, Hội đồng xét xử thấy đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh, điều khoản áp dụng, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt và các vấn đề khác trong vụ án là phù hợp, có căn cứ và đúng quy định của pháp luật nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333; khoản 1 Điều 337 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử phạt bị cáo TTH 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 09/9/2023.

2. Vật chứng:

2.1. Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì ký hiệu “QT” bên trong có vỏ bao gói mẫu sau giám định, chất cục bột màu trắng là ma túy Heroin có khối lượng 0,283 gam và viên nén hồng đỏ là ma túy Methamphetamine có khối lượng 0,166 gam hoàn lại sau giám định.

2.2. Trả lại bị cáo TTH 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, màu xanh đen, đã qua sử dụng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

3. Án phí: Bị cáo TTH phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b, 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 98/2023/HS-ST

Số hiệu:98/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Dũng - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về