Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 98/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 98/2023/HS-ST NGÀY 16/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 98/2023/TLST-HS ngày 27 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 94/2023/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2023 đối với:

Bị cáo: Chu Văn T, sinh năm 2000; tại Hà Nam; nơi cư trú: Thôn Y, xã Đ, huyện K, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chu Văn C và bà Phạm Thị H; vợ: Dương Thị P; con: Có 01 con, sinh năm 2022; tiền sự; tiền án: Không; tạm giữ ngày 30 tháng 8 năm 2023, chuyển tạm giam ngày 06 tháng 9 năm 2023 đến nay. Có mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Chu Thị M, sinh năm 1995;

trú tại: Thôn Y, xã Đ, huyện K, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

* Người làm chứng: Anh Hoàng Văn L, sinh năm 1979. Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1963. Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 30/8/2023, Chu Văn T đang ở nhà tại thôn Y, xã Đ, huyện K, tỉnh Hà Nam thì bạn tên là C (T không biết họ, tên đệm, năm sinh và địa chỉ cụ thể) quen trên mạng xã hội nhắn tin cho T “Tôi mới lấy hàng, qua tôi đưa cho về mà chơi”, T hiểu ý người bạn đưa ma túy về để sử dụng, T đồng ý và nhắn tin “Tý nữa tôi vào”. Sau đó T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave alpha BKS 90B2-181xx đi đến đầu đường Điện Biên Phủ thuộc tổ 1 thị trấn B, huyện K, tỉnh Hà Nam thì gặp C. T chở C đi đến khu vực ngã ba đường thuộc tổ 1, thị trấn B, huyện K thì C nói “Đứng đây đợi để tôi vào lấy” rồi C điều khiển xe mô tô của T đi khoảng 5 phút sau quay lại đưa cho T 01 túi nilon màu hồng . T biết đó là ma túy nên cầm bỏ vào túi quần đang mặc và điều khiển xe mô tô đi về. Khi đi đến đoạn đường Điện Biên Phủ thuộc tổ 1, thị trấn B, huyện K thì bị lực lượng Công an thị trấn B phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong đồ vật tài liệu bị tạm giữ theo quy định.

Vật chứng thu giữ gồm: Thu trong túi quần phía sau bên phải của T đang mặc 01 túi nilon màu hồng có ký hiệu chữ A, bên trong có 02 túi nilon màu trắng trong đó 01 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng và 01 túi nilon chứa 02 viên nén màu hồng được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01.Thu trong túi quần bên trái phía trước của T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 được niêm phong trong phong bì kí hiệu QT02. Tạm giữ của Chu Văn T 01 xe mô tô BKS 90B2- 181.xx.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Chu Văn T không phát hiện, thu giữ được gì.

Tại bản kết luận giám định số 594/KL-KTHS ngày 05/9/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: Mẫu viên nén trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,190gam loại Methamphetamine. Mẫu tinh thể trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,153gam loại Methamphetamine.

Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai là do đối tượng tên Cò đưa cho tại thị trấn B, huyện K. T không biết họ, tên đệm, tuổi, địa chỉ cụ thể của C nên Cơ quan điều tra Công an huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam không có căn cứ để xác minh làm rõ được.

Cáo trạng số 100/CT-VKSKB ngày 24/10/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã truy tố bị cáo Chu Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Chu Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Chu Văn T từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 30/8/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong nguyên vẹn số 594/KTHS của Công an tỉnh Hà Nam, phần kính gửi đề mẫu vật hoàn trả QT01. Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 8, màu hồng, màn hình cảm ứng, đã qua sử dụng.

Bị cáo nhất trí với cáo trạng, luận tội của Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Kim Bảng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Chu Văn T thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người làm chứng và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa.

Có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 17 giờ 15 ngày 30/8/2023, tại đường Điện Biên Phủ thuộc tổ 1, thị trấn B, Công an thị trấn B, huyện K, tỉnh Hà Nam phát hiện bắt quả tang Chu Văn Thắng đang cất giữ trong túi quần phía sau bên phải đang mặc 0,343 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng. Hành vi đó của bị cáo Chu Văn Thắng đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy". Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại trực tiếp đến khách thể được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ, đó là chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi cất giấu 0,343gam chất ma túy để sử dụng bị pháp luật nghiêm cấm nhưng để thỏa mãn nhu cầu cá nhân bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì chất ma túy không những trực tiếp hủy hoại sức khỏe con người, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội mà còn là nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng tội phạm trong xã hội.

[3] Về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và có ông ngoại, ông nội là người có công với cách mạng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt:

Về hình phạt chính: Từ phân tích trên, xét thấy cần xử phạt nghiêm bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn tương xứng tính chất, mức độ tội phạm của bị cáo thực hiện mới có tác dụng răn đe, cải tạo, giáo dục và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Gồm 01 phong bì niêm phong nguyên vẹn số 594/KTHS của Công an tỉnh Hà Nam, phần kính gửi đề mẫu vật hoàn trả QT01 là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone8 màu hồng, màn hình cảm ứng, điện thoại cũ đã qua sử dụng bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước Đối với 01chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ BKS 90B2-181xx là tài sản hợp pháp của chị Chu Thị M. Chị M không biết bị cáo sử dụng chiếc xe mô tô trên vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã trả lại cho chị M là có cơ sở. Sau khi chị M nhận lại tài sản không có yêu cầu đề nghị gì, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về các vấn đề khác trong vụ án:

Về nguồn gốc ma túy thu giữ: Theo tài liệu điều tra có trong hồ sơ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, không có đủ căn cứ để xác định nguồn gốc số ma túy đã thu giữ và đối tượng có liên quan để xử lý.

[7 Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331; Điều 332; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình sự: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên bố bị cáo Chu Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Chu Văn T 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù, tính từ ngày bị bắt tạm giữ 30 tháng 8 năm 2023.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong nguyên vẹn số 594/KTHS của Công an tỉnh Hà Nam, phần kính gửi ghi mẫu vật hoàn trả QT01. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone8 màu hồng, màn hình cảm ứng, IMEL 356774089092647, điện thoại cũ đã qua sử dụng (Tình trạng, đặc điểm các vật chứng nêu trên theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Kim Bảng với Chi cục thi hành án dân sự huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam ngày 25/10/2023).

3. Án phí: Bị cáo Chu Văn T phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 98/2023/HS-ST

Số hiệu:98/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về