Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 98/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ , TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 98/2023/HS-ST NGÀY 25/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 88/2023/TLST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2023, đối với bị cáo:

Vũ Quốc T, sinh năm 1996 tại Hà Nam; nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện K, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc:

Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn C và bà Vũ Thị Y; vợ: Vũ Thị L, con: Có 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 30/6/2023, chuyển tạm giam từ ngày 06/7/2023 đến nay; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Anh Vũ Văn H, sinh năm 2003; vắng mặt. Trú tại: Thôn Đ, xã H, huyện K, tỉnh Hà Nam.

- Anh Vũ Văn A, sinh năm 1996; vắng mặt. Trú tại: Thôn Đ, xã H, huyện K, tỉnh Hà Nam.

Người làm chứng: Anh Hoàng Văn T, sinh năm 1994; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 29/6/2023, Vũ Quốc T đang ở nhà thì có anh Vũ Văn H đi xe máy đến, T rủ anh H lên Đ, thị xã D chơi, anh H đồng ý rồi lấy xe mô tô biển kiểm soát 90B2-xxxxx chở T đến khu vực cầu vượt Đồng Văn, thị xã D, tỉnh Hà Nam. Tại đây, T gặp anh Nguyễn Văn H là bạn của T, sau khi nói chuyện thì H rủ T đi sử dụng ma túy, T đồng ý và bảo anh H điều khiển xe mô tô chở H và T đi lên Tân Sơn, huyện K để mua ma túy sử dụng (anh H không biết việc H rủ T đi mua ma túy sử dụng). Khi đi đến ngã ba xã T, huyện K thì H bảo anh H dừng xe đứng đợi, H đi đâu một lúc sau quay lại rồi lên xe để anh H chở đi. Trên đường đi, H đưa cho T 01 gói giấy bạc màu trắng, T biết đó là gói ma túy nên không mở ra kiểm tra mà cầm cất vào trong túi quần bên trái đang mặc. Khi đi đến đoạn đường K thuộc tổ 7, phường L, thành phố P, do anh H khát nước nên đã dừng xe vào quán tạp hóa bên đường để mua nước uống thì bị lực lượng công an phường L, thành phố P đang làm nhiệm vụ phát hiện có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra, lợi dụng sự sơ hở H đã chạy thoát. Tại chỗ, T tự giác giao nộp cho lực lượng công an 01 gói giấy bạc màu trắng, bên trong có chứa 05 viên nén hình tròn màu đỏ và chất tinh thể màu trắng và khai nhận đó là ma túy, mục đích cất giữ là để sử dụng. Lực lượng Công an đã đưa T về trụ sở Công an phường L, thành phố P lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng, tài sản thu giữ gồm: 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong có chứa 05 viên nén hình tròn màu đỏ và chất tinh thể màu trắng được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Huawei màu xanh; 01 xe mô tô Biển kiểm soát 90B2 – xxxxx.

Ngày 30/6/2023, Công an phường L, thành phố P đã bàn giao hồ sơ vụ án cùng đối tượng Vũ Quốc T và tang vật cho Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phủ Lý để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 30/6/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phủ Lý thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Vũ Quốc T tại Thôn T, xã H, huyện K, tỉnh Hà Nam, quá trình khám xét không thu giữ tài sản, đồ vật gì liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 407/KL-KTHS ngày 05/7/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận:

“- Mẫu viên nén trong phòng bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,483g loại: Methamphetamine.

- Mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,021g loại: Methamphetamine”.

Tại bản cáo trạng số 96/CT-VKS-PL ngày 31/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Vũ Quốc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Vũ Quốc T như nội dung bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì. Đề nghị Hội đồng xét xử (viết tắt là HĐXX):

+ Tuyên bố bị cáo Vũ Quốc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Quốc T từ 30 đến 36 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy loại: Methamphetamine hoàn trả sau giám định cùng toàn bộ bao gói. Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Huawei màu xanh.

+ Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố, bị cáo không tranh luận, bào chữa gì, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai và quan điểm của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy, HĐXX vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[3] Về tội danh: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Vũ Quốc T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định, lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, HĐXX có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 21 giờ ngày 29/6/2023, tại khu vực đường K, thuộc tổ 7, phường L, thành phố P, Vũ Quốc T đang cất giữ trái phép 0,504 gam ma túy loại: Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phường L, thành phố P phát hiện bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố đối với Vũ Quốc T là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an trong xã hội và là nguyên nhân phát sinh nhiều hành vi vi phạm pháp luật khác. Do vậy cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Song xét bị cáo phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo nên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có công việc, thu nhập ổn định, mục đích tàng trữ là để sử dụng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng và các tài liệu đã thu giữ:

Đối với số ma túy đã thu giữ của bị cáo được hoàn trả lại sau giám định cùng toàn bộ bao gói là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 90B2-xxxxx mà anh H sử dụng để chở Tvà H đi mua ma túy sử dụng. Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Vũ Văn A. Anh Văn A cho anh H mượn xe nhưng không biết anh H đi đâu và chở ai nên không liên quan đến vụ án. Ngày 03/8/2023 cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý đã trả lại cho anh Vũ Văn A chiếc xe mô tô trên là phù hợp với pháp luật.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI màu xanh, là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến vụ án nên trả lại bị cáo là phù hợp pháp luật.

[7] Về tình tiết khác của vụ án:

Về nguồn gốc số ma túy thu giữ của Vũ Quốc T: Bị cáo khai là của người bạn tên Nguyễn Văn H ở xã T, huyện K, tỉnh Hà Nam mua và đưa cho bị cáo để sử dụng. Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phủ Lý đã xác minh tại xã T, huyện K nhưng không có đối tượng nào tên Nguyễn Văn H có đặc điểm như bị cáo xác định. Ngoài lời khai của bị cáo thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ xử lý trong vụ án này.

Đối với anh Vũ Văn H là người chở Thắng và H nhưng anh H không biết việc Thắng và H rủ nhau đi mua ma túy, cũng không biết Thắng tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng nên không có căn cứ để xử lý.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

[9] Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáo Vũ Quốc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2/ Xử phạt bị cáo Vũ Quốc T 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30 tháng 6 năm 2023.

3/ Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy loại: Methamphetamine cùng toàn bộ bao gói được niêm phong trong phong bì mặt trước ghi “Mẫu vật hoàn trả QT01”, số: 407/KTHS.

- Trả lại bị cáo Vũ Quốc T 01 điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI màu xanh, loại màn hình cảm ứng, số IMEI1: 868735034735045; IMEI2: 868735034759052 (điện thoại cũ đã qua sử dụng).

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 31/8/2023 giữa Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý).

4/ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Vũ Quốc T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bàn án hoặc niêm yêt bản án theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 98/2023/HS-ST

Số hiệu:98/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về