TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HÒA, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 96/2023/HS-ST NGÀY 20/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20/11/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh B mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 97/2023/TLST-HS ngày 03/11/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 93/2023/QĐXXST-HS ngày 08/11/2023, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Đức Th; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam.
Sinh năm:1987;
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ dân phố S, thị trấn T, huyện H, tỉnh B;
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;
Nghề nghiệp: Tự do ; Chức vụ: Không có;Trình độ học vấn: 4/12;
Họ và tên bố: Nguyễn Đức M (đã chết); Họ và tên mẹ: Đào Thị T, sinh năm 1960; Vợ, con: Chưa có;
Anh chị em ruột: Gia đình có 3 anh em, bị cáo là con thứ 3. Tiền án, Tiền sự: Không.
Nhân thân:
- Năm 2004, Trưởng Công an thị trấn T xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức “Cảnh cáo”về hành vi Trộm cắp tài sản;
- Bản án số 02/2006/HSST ngày 05/01/2006 của Tòa án nhân dân huyện H xửphạt 12 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (chấp hành xong hình phạt tù tháng 11/2007 - chấp hành xong án phí ngày 10/12/2007; bồi thường dân sự 650.000 đồng qua xác minh người được thi hành án chưa yêu cầu. Đến nay đã hết thời hiệu thi hành án);
- Bản án số 59/2010/HSST ngày 27/8/2010 của Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chấp hành xong hình phạt tù ngày ngày 15/11/2011 - chấp hành xong án phí ngày 21/9/2011);
- Bản án số 89/2011/HSST ngày 30/11/2011 của Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/4/2013 - chấp hành xong án phí ngày 22/02/2023);
- Bản án số 27/2018/HSST ngày 24/4/2018 của Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/6/2019 - chấp hành xong án phí ngày 22/02/2023; bồi thường dân sự 1.400.000 đồng qua xác minh tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện H người được thi hành án chưa có đơn yêu cầu. Đến nay đã hết thời hiệu thi hành án).
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/10/2023 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B (Có mặt).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà Đào Thị T, sinh năm1960 (có mặt) Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ dân phố S, thị trấn T, huyện H, tỉnh B
* Người làm chứng: Anh Nguyễn Tiến T, sinh năm 1991 (vắng mặt) Trú tại: xóm Tr, xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 8 giờ 30 phút ngày 02/10/2023, tại gian bếp của nhà Nguyễn Đức Th. Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an huyện H phối hợp với Công an thị trấn T bắt quả tang Th đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ tại đất cạnh chỗ Th đứng 02 (hai) đoạn ống nhựa màu xanh có kẻ sọc trắng, được hàn kín hai đầu chứa chất cục bột màu trắng. Th khai nhận là ma túy Heroin của Th tàng trữ để sử dụng, khi phát hiện tổ công tác thì Th đã vứt xuống đất. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong 02 đoạn ống nhựa trên trong phong bì ký hiệu “QT”.
Cùng ngày 02/10/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Th. Kết quả: thu giữ tại dây phơi quần áo trong gian bếp nhà Th 01 áo khoác nhiều màu, kiểm tra thu giữ tại túi trong bên trái áo khoác 01 túi nilon màu xanh (loại vỏ bao thuốc lào Hạt Đỗ), một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, bên trong có 02 đoạn ống nhựa màu xanh đều được hàn kín 02 đầu, mỗi đoạt đều có kẻ sọc màu trắng, bên trong mỗi đoạn ống nhựa đều chứa chất cục bột màu trắng nghi là mà túy, Th khai nhận là ma túy của Th tàng trữ để sử dụng. Được niêm phong trong phong bì ký hiệu “KX”.
Tại Kết luận giám định số 1858/KL-KTHS ngày 06/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B, kết luận:
- Trong 01 (một) phong bì có ký hiệu “QT” đã được niêm phong gửi giám định: Chất cục bột màu trắng đựng trong 02 (hai) đoạn ống nhựa màu xanh có kẻ sọc trắng, được hàn kín hai đầu là ma túy, có tổng khối lượng 0,178 gam, loại Heroine.
- Trong 01 (một) phong bì có ký hiệu “KX” đã được niêm phong gửi giám định: Chất cục bột màu trắng đựng trong 02 (hai) đoạn ống nhựa màu xanh có kẻ sọc màu trắng, được hàn kín hai đầu, được đựng trong 01 (một) túi ni lon màu xanh (loại vỏ thuốc lào Hạt Đỗ) là ma túy, có tổng khối lượng 0,159 gam, loại Heroine.
Trong quá trình điều tra, Th khai nhận: Khoảng gần 09 giờ ngày 01/10/2023, Th bắt xe khách từ thị trấn T, huyện H sang khu vực ngã ba YAMAHA thuộc địa phận huyện S, thành phố Hà Nội để mua ma túy về sử dụng. Khi đến nơi, Th mua của một người xe ôm không quen biết 500.000 đồng tiền ma túy được 01 túi nilon màu xanh (loại vỏ bao thuốc lào Hạt Đỗ), một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, bên trong có 04 đoạn ống nhựa màu xanh, có kẻ sọc màu trắng, đều được hàn kín hai đầu, đều chứa heroin. Th bắt xe khách về đến thị trấn T và đi bộ về nhà và lấy 02 đoạn ống nhựa chứa ma túy cất giấu tại túi phải quần Th mặc. Còn lại túi nilon chứa 02 đoạn ống nhựa chứa ma túy Th cất giấu tại túi trong bên trái áo khoác nhiều màu treo ở dây phơi trong bếp. Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 02/10/2023, Th đi ăn sáng về đến nhà mở cửa rồi đi vào gian bếp, dùng tay phải lấy 02 đoạn ống nhựa chứa ma túy ở túi phải quần Th mặc ra để sử dụng thì bị Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H kiểm tra, bắt quả tang, Th thả 02 đoạn ống nhựa chứa ma túy xuống đất ngay gần chân Th đứng.
Cơ quan CSĐT Công an huyện H đã cho Th thực nghiệm lại hành vi cầm ma túy và ném xuống vị trí dưới chân Th. Kết quả, Th thực hiện thuần thục các động tác hoàn toàn phù hợp với lời khai của Th.
Với nội dung trên, bản Cáo trạng số 101/CT-VKS-HH ngày 02/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo Nguyễn Đức Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay, sau phần xét hỏi tại phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H thực hành quyền công tố đã luận tội đối với bị cáo, phân tích, đánh giá tính chất nguy hiểm của vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” 2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Nguyễn Đức Th từ 01 năm 02 tháng tù đến 01 năm 04 tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/10/2023.
Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì chứa chất ma túy ký hiệu ‘”QT” đã được niêm phong; 01 phong bì chứa chất ma túy có ký hiệu “KX” đã được niêm phong và 01 chiếc áo khoác nhiều màu.
4. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án: Miễn án phí cho bị cáo.
Bị cáo nhận tội và không có tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về sự vắng mặt của người làm chứng là anh Nguyễn Tiến T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do, tuy nhiên đã có đầy đủ lời khai của họ trong hồ sơ nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt người làm chứng theo khoản 1 Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
[3] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều thừa nhận: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 02/10/2023 tại gian bếp của nhà Nguyễn Đức Th ở Tổ dân phố S, thị trấn T, huyện H, tỉnh B; Công an huyện H phát hiện bắt quả tang Nguyễn Đức Th đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép tổng số 0,337 gam ma tuý Heroine nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân.
Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp về thời gian, không gian, địa điểm. Hành vi của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ của hành vi: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội. Ma tuý là hiểm hoạ cho đời sống cộng đồng, là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác, là nguy cơ lây truyền các căn bệnh xã hội như HIV, AIDS… Pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển… trái phép chất ma tuý. Đảng và Nhà nước ta đang quyết tâm loại trừ tệ nạn này.
Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến quyền lợi chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, đang bị nhiễm HIV, có nhân thân xấu, bản thân nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song bị cáo vẫn cố tình thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, do đó cần phải có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nên cần phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng của bị cáo thì thấy: Bị cáo là đối tượng có nhân thân xấu đã bị Tòa án các cấp xét xử về các hành vi chiếm đoạt, là đối tượng nghiện ma túy.
[5] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần áp dụng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo một phần khi lượng hình.
[6] Xét về hình phạt bổ sung: Do bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, cần miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[7] Đối với người đàn ông Th khai đã bán ma túy cho Th ở khu vực ngã ba YAMAHA thuộc huyện S, thành phố Hà Nội. Do không biết thông tin về nhân thân, lai lịch, không nhớ đặc điểm nhận dạng nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để tổ chức điều tra xác minh để xử lý.
[8] Về vật chứng của vụ án gồm: Đối với 01 phong bì chứa chất ma túy ký hiệu ‘”QT” đã được niêm phong; 01 phong bì chứa chất ma túy có ký hiệu “KX” đã được niêm phong và 01 chiếc áo khoác nhiều màu, cần tịch thu tiêu hủy.
[9] Cần tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
[10] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38;
Điều 50 của Bộ luật Hình sự; khoản 1 Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự.
1. Về hình phạt:
Xử phạt: Nguyễn Đức Th: 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 02/10/2023. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
2. Về xử lý vật chứng:
Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì chứa chất ma túy ký hiệu ‘”QT” đã được niêm phong; 01 phong bì chứa chất ma túy có ký hiệu “KX” đã được niêm phong và 01 chiếc áo khoác nhiều màu.
3. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý v à sử dụng án phí lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 96/2023/HS-ST
Số hiệu: | 96/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về