Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 96/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 96/2022/HS-ST NGÀY 24/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 9 năm 2022, tại Hội trường số 02 Tòa án thành phố Đông Hà xét xử sơ thẩm công khai bằng hình thức trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số 96/2022/HSST ngày 12 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95/2022/QĐXXST-HS ngày 14/9/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Anh T (tên gọi khác: T B); giới tính: Nam; sinh ngày 19/02/1979 tại Thừa Thiên Huế; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Khu phố B, Phường M, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Trần Quốc Kh (Nguyễn Quốc Kh) (đã chết) và con bà: Nguyễn Thị B (đã chết); bị cáo là con duy nhất trong gia đình; bị cáo chưa có vợ con; tiền sự: không có.

Tiền án: Có 03 tiền án cụ thể:

- Ngày 07/6/2006, bị Tòa án nhân dân thị xã Đông Hà (nay là thành phố Đông Hà) xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Ngày 17/8/2009, bị Tòa án nhân dân thị xã Đông Hà (nay là thành phố Đông Hà) xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Ngày 24/01/2017, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị xử phạt 07 năm tù về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 09/01/2022, chấp hành án xong về địa phương sinh sống.

Nhân thân: Ngày 25/3/2003, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị xử phạt 18 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ vào ngày 04/4/2022 đến ngày 13/4/2022 thì chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đông Hà cho đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 30/3/2022, T gặp 01 nam thanh niên tên gọi là “C” (không rõ lai lịch, địa chỉ) tại khu vực Bưu điện thành phố Đông Hà, đường Trần Hưng Đạo, thuộc: Khu phố 2, Phường 1, thành phố Đông Hà. Người thanh niên tên C hỏi T “Có sử dụng ma túy không?”, T trả lời “Có” nên người thanh niên tên C cho T 02 gói ni long trong suốt bên trong có chứa chất ma túy nhưng T không biết chất ma túy gì, sau đó T mang về nhà cho vào 01 mảnh giấy màu bạc gói lại rồi để vào gói thuốc tây đặt ở ô gió trên tường trong phòng ngủ của mình để sử dụng.

Khoảng 10 giờ ngày 01/4/2022, T đi đến khu vực đường Đinh Tiên Hoàng, thuộc Khu phố 2, Phường 1, thành phố Đông Hà tìm gặp 01 nam thanh niên tên H (không rõ lai lịch, địa chỉ) hỏi mua 100.000 đồng ma túy hồng phiến để sử dụng, H đồng ý nhận tiền và giao cho T 01 túi ni lông màu xanh bên trong có chứa 04 viên ma túy loại hồng phiến và cho thêm gói giấy bạc bên trong có chứa ma túy loại Heroin, 01 viên nén màu xanh và một phần viên nén màu xanh. Sau khi có được ma túy T cất giấu trong túi áo khoác bên phải rồi đi về nhà lấy 03 viên ma túy hồng phiến trong gói ni lông màu xanh ra sử dụng, còn 01 viên cất giấu trong ngăn kéo của tủ đựng đồ trong phòng ngủ. 01 viên nén màu xanh và một phần viên nén màu xanh thì đưa vào 01 ống nhựa màu trắng hàn kính hai đầu cho vào vỏ bao thốc lá hiệu AROMA cất giấu trên ô kệ trên bàn trong phòng ngủ. Đối với số ma túy Heroin T chia ra thành hai phần, 01 phần để vào gói giấy bạc giấu trong ô kệ trên bàn trong phòng ngủ, còn lại T gói vào 01 tờ vé số kiến thiết Quảng Trị để vào hộp giấy màu trắng, xanh trên bề mặt có chữ “Bút chì” rồi cất giấu tại ô kệ của bàn trong phòng ngủ. Đến khoảng 10 giờ 20 phút ngày 04/04/2022, Công an thành phố Đông Hà kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ số ma túy nói trên.

Vật chứng thu giữ:

- 01 gói giấy kẽm có chứa 02 túi ni long trong suốt bên trong có chứa các chất rắn dạng tinh thể màu hồng, được niêm phong trong túi niêm phong có mã số NS42201994, kí hiệu M1;

- 01 viên nén hình tròn màu hồng, trên bề mặt có chữ WY, được niêm phong trong túi niêm phong có mã số NS42201987, kí hiệu M2;

- 01 gói giấy kẽm bạc, bên trong có chứa các chất bột màu trắng, được niêm phong trong túi niêm phong có mã số NS42201995, kí hiệu M3 ;

- 01 viên nén hình tròn màu xanh, và 01 phần viên nén hình tròn màu xanh, được niêm phong trong túi niêm phong có mã số NS42201992, kí hiệu M4;

- 01 gói giấy kẽm bạc, bên trong có chứa các chất bột màu trắng, được niêm phong trong túi niêm phong có mã số NS42201991, kí hiệu M5;

- 01 điện thoại di động hiệu SamSung, màu đen, số thuê bao: 097406xxxx, số IMEI 1: 3564460891661/01, số IMEI 2: 356447089166170/01.

Tại bản Kết luận giám định số 400/KLGĐ, ngày 08/4/2022, của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Trị xác định:

- Chất rắn dạng tinh thể màu hồng, được niêm phong trong túi niêm phong có kí hiệu M1 là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,4884 gam.

- Viên nén hình tròn màu hồng, trên bề mặt có chữ WY, được niêm phong trong túi niêm phong có kí hiệu M2 là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,1015 gam;

- Chất bột màu trắng, được niêm phong trong túi niêm phong có kí hiệu M3 là ma túy loại Heroin, có khối lượng 0,0069g;

- 01 viên nén hình tròn màu xanh, và 01 phần viên nén hình tròn màu xanh, được niêm phong trong túi niêm phong có kí hiệu M4 là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,1196 gam ;

- Chất bột màu trắng, được niêm phong trong túi niêm phòng kí hiệu M5 là ma túy loại Heroin, có khối lượng 0,0422 gam;

Tại bản Cáo trạng số 100/CT-VKSĐH ngày 12 tháng 9 năm 2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà đã truy tố bị cáo Nguyễn Anh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh T (tên gọi khác: Tuấn B) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng Điểm o Khoản 2 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T (tên gọi khác: Tuấn B) từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ: Áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điểm a, c Khoản 2, Điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định và toàn bộ bao gói được niêm phong trong phong bì ký hiệu PS3A 104775 có đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị;

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu SamSung, màu đen, số thuê bao: 097406xxxx, số IMEI 1: 3564460891661/01, số IMEI 2: 356447089166170/01 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp các các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố và xét xử, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đông Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.

[2]Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Anh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 04/4/2022, Nguyễn Anh T đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bên trong phòng ngủ của mình nhằm mục đích để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an thành phố Đông Hà bắt quả tang cùng với tang vật.

Tại bản kết luận giám định số 400/KLGĐ ngày 08/4/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận:

- Chất rắn dạng tinh thể màu hồng, được niêm phong trong túi niêm phong có kí hiệu M1 có khối lượng 0,4884 gam; Viên nén hình tròn màu hồng, trên bề mặt có chữ WY, được niêm phong trong túi niêm phong có kí hiệu M2 có khối lượng 0,1015 gam; 01 viên nén hình tròn màu xanh, và 01 phần viên nén hình tròn màu xanh, được niêm phong trong túi niêm phong có kí hiệu M4 có khối lượng 0,1196 gam đều là ma túy loại Methamphetamine. Khối lượng ma túy loại Methamphetamine trong các túi niêm phong có kí hiệu M1, M2, M4 là: 0,7095g.

- Chất bột màu trắng, được niêm phong trong túi niêm phong có kí hiệu M3 có khối lượng 0,0069g; Chất bột màu trắng, được niêm phong trong túi niêm phòng kí hiệu M5 có khối lượng 0,0422 gam đều là ma túy loại Heroin; Khối lượng ma túy loại Heroin trong các túi niêm phong có kí hiệu M3, M5 là: 0,0489g. Tổng khối lượng 02 chất ma túy Methamphetamine và Heroin là: 0,7584g.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323; Heroin là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT 09 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.

Nguyễn Anh T có 03 tiền án nhưng đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy Methamphetamine và Heroin có khối lượng là: 0,7584g để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an thành phố Đông Hà bắt quả tang cùng với tang vật.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Anh T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự, với tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm”. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Điều luật quy định khung hình phạt: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, gây ảnh hưởng nghiêm trọng về nhiều mặt cho đời sống xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi hình sự, biết việc “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Bị cáo có nhân thân xấu đã bị Tòa án xét xử về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”; có 03 tiền án về tội “mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy”. Nhưng, sau mỗi lần chấp hành án trở về địa phương chỉ được một thời gian ngắn bị cáo lại tiếp tục phạm tội. Điều đó cho thấy bị cáo coi thường pháp luật, không có ý thức tu dưỡng rèn luyện bản thân. Vì vậy, cần phải xử bị cáo nghiêm minh với mức hình phạt tù có thời hạn cao hơn đáng kể so với mức khởi điểm mới phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo, phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ:

- Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm s Khoản 1Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội.

Quyết định tạm giam của bị cáo còn thời hạn trên 45 ngày nên không cần phải tiếp tục ban hành quyết định tạm giam mới đối với bị cáo.

Quá trình điều tra không xác định được người thanh niên tên C và tên H đã cho bị cáo ma túy, bán ma túy cho bị cáo nên không có cơ sở xử lý.

[5]Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ:

Ma tuý là vật cấm lưu hành, bao gói không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu và tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định và toàn bộ bao gói được niêm phong trong phong bì ký hiệu PS3A 104775 có đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị;

- Chiếc điện thoại di động hiệu SamSung, màu đen, số thuê bao: 097406xxxx, số IMEI 1: 3564460891661/01, số IMEI 2: 356447089166170/01 là tài sản của bị cáo không sử dụng vào mục đích phạm tội nên trả lại cho bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh T (tên gọi khác: Tuấn B) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Căn cứ Điểm o Khoản 2 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Anh T (tên gọi khác: Tuấn B) : 06 (Sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 04/4/2022.

2. Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ: Căn cứ vào Điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điểm a, c Khoản 2, Điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xử:

+ Tịch thu và tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định và toàn bộ bao gói được niêm phong trong phong bì ký hiệu PS3A 104775 có đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị;

+ Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động hiệu SamSung, màu đen, số thuê bao: 097406xxxx, số IMEI 1: 3564460891661/01, số IMEI 2: 356447089166170/01, nhưng tạm giữ để thi hành án.

(Vật chứng hiện có tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa cơ quan Điều tra Công an thành phố Đông Hà và Cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà lập ngày 22/9/2022).

3. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, buộc bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

97
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 96/2022/HS-ST

Số hiệu:96/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về