Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 96/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 96/2021/HS-ST NGÀY 04/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 11 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 81/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2021, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Văn N, sinh ngày 19/3/1988 tại xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn H, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn L, sinh năm 1952 (ông L được Nhà nước tặng Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng Ba) và bà: Phạm Thị T, sinh năm 1954; có vợ là: Nông Thị M, sinh năm 1983 và 02 con, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2014; tiền sư: Không; tiên an: Bản án số 05/2018/HSST ngày 07/02/2018 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình phạt 02 năm tù về tội “Mua ban trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999; chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/9/2019; bị tạm giữ từ ngày 12/7/2021 đến ngày 15/7/2021 chuyển tạm giam cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình (có mặt).

Người chứng kiến:

- Ông Lê Duy B, sinh năm 1972 - Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1964 Cùng cư tru: Thôn V, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình (văng măt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 08 giờ ngày 12/7/2021, tại khu vực thôn V, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình, tổ công tác của Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện Phạm Văn N đang đi bộ có biểu hiện liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu N dừng lại để kiểm tra thì N lấy từ túi quần phía sau bên phải đang mặc 02 gói giấy trắng có dòng kẻ ném xuống đất. Tổ công tác yêu cầu N nhặt 02 gói đó lên cho vào túi quần phía sau bên phải đang mặc, mang về trụ sở Ủy ban nhân dân xã A để kiểm tra. Tại đây, tổ công tác tiến hành kiểm tra, thu giữ tại túi quần phía sau bên phải N đang mặc 02 gói giấy trắng có dòng kẻ chứa chất bột màu trắng, dạng cục, N khai đó là Heroin vừa mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong gói vật chứng.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị cáo không phát hiện, thu giư gi.

Bản kết luận giám định số 269/KLGĐMT - PC09 ngày 13/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Vật chứng gửi đến giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), khối lượng 0,2391 gam (Không phảy hai nghìn ba trăm chín mươi mốt gam).” Heroine STT: 9, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 và Nghị định 60/2020/NĐ-CP ngày 29/5/2020 của Chính Phủ”.

Tại phiên tòa bị cáo khai: Do nghiện ma tuý nên sáng ngày 12/7/2021, bị cáo đi nhờ xe của một người đàn ông khoảng 40 tuổi không quen biết, đến khu vực ngã tư V , xã A, huyên Q thì xuống xe, đi vào một ngõ nhỏ mua của một người đàn ông khoảng 50 tuổi, không biết tên, địa chỉ 02 gói heroin giá 200.000 đồng rồi giấu vào túi quần phía sau bên phải đi tìm chỗ vắng để sử dụng, đi được khoảng 50 m thì bị Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện, bắt quả tang.

Bản cáo trạng số 90/CT-VKSQP ngày 01/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình truy tố Phạm Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với Phạm Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điêu 51, điêm h khoan 1 Điêu 52, Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, phạt bị cáo từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/7/2021; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Ngoài ra, còn đề nghị về xử lý vật chứng, nghĩa vụ nộp án phí hình sự sơ thẩm và các vấn đề khác theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo đã đủ tuổi và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thưc hiên là phạm tội vơi lôi cố ý trưc tiêp . Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đung như nôi dung cáo trạng đã nêu và phù hợp với các lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lơi khai cua ngươi chưng kiên có trong hồ sơ vụ án. Ngoài ra còn được chứng minh bằng các tài liệu , chưng cư sau: Biên ban băt ngươi pham tôi qua tang; biên bản quản lý, niêm phong đồ vật bị tạm giữ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ lập; biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định giưa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ vơi Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cùng ngày 12/7/2021; Kết luận giám định số 269/KLGĐMT-PC09 ngày 13/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cùng toàn bộ tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Do đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 08 giờ ngày 12/7/2021, tại thôn V, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình, Phạm Văn N đã có hành vi cât giâu trái phép trên người 02 gói ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,2391 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

mua Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.” Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ truy tố và kết luận bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội , xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự và an toàn xã hội tại địa phương; tệ nạn ma túy là mối quan tâm nhức nhối của toàn xã hội, ma túy gây tác hại lớn tới con người và là một trong những nguyên nhân hàng đầu kìm hãm sự phát triển kinh tế, văn hóa, gây ra nhiều tệ nạn khác kéo theo. Măc du đa bi kêt an vê tôi mua ban trai phep chât ma tuy nhưng bi cao không lây lam bai hoc đê tu dương , sưa đôi ban thân , lại tiếp tuc pham tôi. Hành vi của bị cáo thể hiện ý thức coi thường pháp luật tội phạm bị cáo thực hiện thuôc loại tội nghiêm trọng, vì vậy bị cáo phải chịumưc hình phạt tương xứng với hành vi bị cáo đã gây r.a [4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Vê tinh tiêt tăng năng : Năm 2018, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình phạt 02 năm tù về tội “Mua ban trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/9/2019. Như vây , bị cao đã bị kết án, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Vê tinh tiêt giam nhe : Quá trình điều tra , truy tô va tai phiên tòa bị cáo khai bao trung thưc toan bô hanh vi pham tôi ; bô bi cao được Nhà nước tặng Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng Ba, do đo bi cao đươc hương tinh tiêt giam nhẹ trách nhiệm hình sự “ Ngươi pham tôi thanh khân khai bao ” theo quy đinh tại điểm s khoản 1 và khoản2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, tình tiết tăng năng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đa phân tich trên thây cân thiêt áp dụng hình p hạt tù có thời hạn , cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội môt thơi gian nhât đinh, như mưc an đai diên Viên kiêm sat đê nghi để cải tạo, giáo dục bị cáo và có tác dụng trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, như vậy bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định , vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Do không có căn cứ xác định người đã bán ma túy cho bị cáo, do đó cơ quan Điều tra không có cơ sở để điều tra xử lý.

[8] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo 02 gói ma túy, kết quả giám định kết luận là ma túy loại heroine và hoàn trả mẫu vật sau giám định. Xét thấy đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành, do đó cần tịch thu để tiêu hủy là phù hợp với quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điêu 51, điêm h khoan 1 Điêu 52, Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, phạt bị cáo Phạm Văn N 01 (Môt) năm 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12 tháng 7 năm 2021.

- Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 0,1502 gam (Không phẩy môt nghìn năm trăm linh hai gam) mâu vât gưi giam đinh và toàn bộ bao gói thu giư cua Phạm Văn N trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 269/KLGĐMT của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình.

Vật chứng trên đang được chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện và chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình ngày 01/10/2021.

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Phạm Văn N phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

69
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 96/2021/HS-ST

Số hiệu:96/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:04/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về