Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 94/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YD, TỈNH BG

BẢN ÁN 94/2023/HS-ST NGÀY 16/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 11 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm phòng xét xử Tòa án nhân dân tỉnh BG và điểm cầu thành phần Trại tạm giam Công an tỉnh BG, Tòa án nhân dân huyện YD, tỉnh BG xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 95/2023/TLST-HS ngày 09/10/2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2023/QĐXXST-HS ngày 03/11/2023, đối với bị cáo:

VVH, sinh năm 1991; nơi cư trú: Thôn BH, xã QS, huyện LN, tỉnh BG; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Sán Dìu; Tôn giáo: không; nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hoá: 7/12; con ông VNS, sinh năm 1966 và bà TTT, sinh năm 1969; vợ là NTT, sinh năm 1990; bị cáo có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2014, con nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền án, tiền sự, nhân thân: không có.

Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/8/2023 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh BG. (Có mặt)

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh LVD, sinh năm 1997; địa chỉ: TR, xã PV, huyện LN, tỉnh BG. (Vắng mặt)

- Người chứng kiến: Anh TVH, sinh năm 1996; địa chỉ: TB, xã TT, huyện VY, tỉnh BG. (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do bị nghiện ma túy và ở khu vực cống chui Quốc lộ 1A, địa phận xã QC, huyện VY có người bán ma túy. Khoảng 23 giờ ngày 25/8/2023, H đi xe ôm của người không quen biết từ phòng trọ ở thôn C, xã nh, huyện YD đến khu vực cống chui Quốc lộ 1A, địa phận xã QC, huyện VY tìm mua ma tuý. H gặp một thanh niên, không biết tên, địa chỉ đứng ở bờ đường. Biết người này bán ma túy, H đi đến đưa và bảo bán cho 1.200.000 đồng ma túy Heroin, người thanh niên đồng ý cầm tiền và đưa cho H 01 gói giấy bạc màu trắng, bên trong đựng chất cục bột màu trắng là ma túy Heroin. H cầm gói ma túy mua được cất giấu vào người đi ra bắt xe ôm đi về phòng trọ tại thôn C, xã Nh, huyện YD rồi dùng dao lam chia nhỏ số ma tuý vừa mua được thành 24 phần rồi gói lại vào 24 mảnh giấy màu trắng (loại giấy học sinh). Sau đó H lấy 10 gói ma túy cho vào 01 túi nilon màu xanh dùng băng dính đen quấn bên ngoài cất vào túi quần bên pH phía trước đang mặc, còn 14 gói ma túy để vào 01 túi nilon màu vàng dùng băng dính màu đen quấn bên ngoài cất vào túi quần phía trước bên trái đang mặc. Đến khoảng 08 giờ 30 phút ngày 26/8/2023, H đem theo toàn bộ số ma tuý cất giấu ở hai túi quần đang mặc, đi xe mô tô 98B3-581.xx từ nhà trọ để đi tìm chỗ sử dụng, khi đến đoạn đường liên thôn khu vực cổng Nghĩa trang thôn C, xã Nh, huyện YD thì bị Tổ công tác Công an huyện YD phát hiện bắt quả tang thu giữ tang vật.

Tang vật thu giữ gồm: 01 túi nilon màu xanh, bên ngoài được quấn băng dính màu đen, bên trong túi nilon có 10 gói giấy màu trắng, có dòng kẻ (loại giấy từ vở học sinh), tất cả bên trong 10 gói giấy này là chất cục bột màu trắng nghi là ma túy; 01 túi nilon màu vàng, bên ngoài được quấn băng dính màu đen, bên trong túi nilon có 14 gói giấy màu trắng, có dòng kẻ (loại giấy từ vở học sinh), tất cả bên trong 14 gói giấy này là chất cục bột màu trắng nghi là ma túy; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát 98B3- 581.xx. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của VVH, Cơ quan điều tra không thu giữ gì.

Kết luận giám định số 1594/KL- KTHS ngày 28/8/2023, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh BG kết luận: “Trong 01 phong bì ký hiệu “QT”, đã được niêm phong gừi giám định: Chất cục bột mầu trắng đựng trong 10 gói giấy màu trắng, có dòng kẻ (loại giấy học sinh), được đựng trong 01 túi nilon màu xanh, bên ngoài quấn băng dính màu đen là ma tuý, có tổng khối lượng 0,186 gam, loại Heroin; chất cục bột mầu trắng đựng trong 14 gói giấy màu trắng, có dòng kẻ (loại giấy học sinh), được đựng trong 01 gói nilon màu vàng, bên ngoài quấn băng dính màu đen là ma tuý, có tổng khối lượng 0,271 gam, loại Heroin.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 phong bì dán kín niêm phong ký hiệu “QT” bên trong là ma túy hoàn lại sau giám định được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện YD để giải quyết theo pháp luật.

Tại cơ quan điều tra VVH đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 97/CT-VKSYD ngày 06/10/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện YD đã truy tố VVH về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo H đã khai nhận toàn bộ nội dung, diễn biến hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Hội đồng xét xử đã công bố lời khai của những người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì.

Sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện YD giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo VVH từ 16 tháng đến 19 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 26/8/2023, miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo; áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 47 của Bộ luật Hình sự: tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư ký hiệu “QT” dán kín, niêm phong hoàn lại sau giám định; áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo nhất trí với nội dung bản luận tội của Kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận gì.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và rất hối hận, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an huyện YD và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện YD và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng trình tự, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, có đủ cơ sở xác định các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến vắng mặt nhưng đã có đầy đủ lời khai trong hồ sơ, sự vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án, căn cứ các điều 292, 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người trên.

[3] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét khách quan, toàn diện nội dung vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 08 giờ 40 phút ngày 26/8/2023, tại đường liên thôn thuộc địa phận thôn C, xã Nh, huyện YD, tỉnh BG, VVH đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,457 gam ma túy loại Heroin, mục đích để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Tổ công tác Công an huyện YD bắt quả tang thu giữ tang vật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện YD, tỉnh BG truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản trên là có căn cứ.

[4] Khi quyết định về tội danh, hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: [4.1] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp phạm tội nghiêm trọng, không chỉ xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý mà còn bởi ma tuý là chất gây nghiện làm băng hoại sức khoẻ của con người, là hiểm hoạ của đại dịch HIV và là nguồn gốc dẫn đến biết bao loại tội phạm khác. Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân đồng thời gây mất trật tự trị an xã hội. Do vậy, cần pH xử nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự.

[4.2] Xét về nhân thân: bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[4.3] Về tình tiết tăng nặng: bị cáo không pH chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[4.4] Về tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Từ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội như trên, Hội đồng xét xử thấy cần thiết pH áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo đồng thời cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật. Không chỉ giúp giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích và biết tuân thủ pháp luật mà còn răn đe, phòng ngừa chung đối với loại tội này trong xã hội. Tuy nhiên, căn cứ vào nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Hội đồng xét xử thấy cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo. Việc xử phạt bị cáo với mức hình phạt trong khung đề nghị như Kiểm sát viên đề nghị tại phiên tòa là phù hợp, có căn cứ pháp luật.

[5] Ngoài hình phạt chính, lẽ ra Hội đồng xét xử còn áp dụng khoản 5 điều 249 của Bộ luật Hình sự để phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo sung quỹ nhà nước. Tuy nhiên, do bị cáo là người dân tộc thiểu số lại thuộc hộ nghèo nên Hội đồng xét xử thấy không cần thiết pH áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án gồm: Đối với 01 phong bì thư ký hiệu “QT” dán kín, niêm phong lại bằng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự bên trong đựng số ma túy thu giữ hoàn lại sau giám định, đây là vật nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu để tiêu huỷ là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Đối với anh LVD là người cho bị cáo H mượn xe mô tô biển kiểm soát 98B3-581.xx nhưng quá trình điều tra xác định được anh Điệp không biết H sử dụng làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý là phù hợp.

[8] Đối với người thanh niên bán ma túy cho bị cáo và những người đi xe ôm chở bị cáo đi mua ma túy và đi về nhà: do bị cáo khai không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của những người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra làm rõ được.

[9] Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 98B3- 81.40: Quá trình điều tra xác định là của anh LVD. Ngày 25/9/2023, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh Điệp là phù hợp với khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[10] Bị cáo thuộc hộ nghèo nên cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo là phù hợp với điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội.

[11] Ngoài ra, cần áp dụng Điều 331, Điều 333, khoản 1 Điều 337 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tuyên quyền kháng cáo, kháng nghị đối với bản án.

Từ những phân tích đánh giá như trên, Hội đồng xét xử thấy đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh, điều khoản áp dụng, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt và các vấn đề khác trong vụ án là phù hợp, có căn cứ và đúng quy định của pháp luật nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333; khoản 1 Điều 337 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Hình phạt: Xử phạt bị cáo VVH 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 26/8/2023.

2. Vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì thư ký hiệu “QT” dán kín, niêm phong lại bằng hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh BG hoàn lại sau giám định.

3. Án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo VVH.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người pH thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b, 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 94/2023/HS-ST

Số hiệu:94/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Dũng - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về