Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 94/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 94/2023/HS-PT NGÀY 08/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08/5/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 93/2023/TLPT-HS ngày 03/4/2023 đối với các bị cáo Nguyễn Trung H, Lương Văn H1, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2023/HS-ST ngày 22/02/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Trung H; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1996, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Thôn 11, xã TH, huyện BĐ, tỉnh Đắk Lắk; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1970 và con bà Phạm Thị G, sinh năm 1973; Bị cáo có vợ là Hoàng Thị Khánh L, sinh năm 1998, có 01 con sinh năm 2018. Tiền sự, Tiền án: Không.

Nhân thân: Ngày 27/11/2014, bị TAND huyện Buôn Đôn xử phạt 09 tháng tù treo, thử thách 18 tháng về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Bản án số 45/2014/HSST. Bị cáo đã được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột từ ngày 25/11/2022 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Lương Văn H1; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 2000, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Thôn 11, xã TH, huyện BĐ, tỉnh Đắk Lắk; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Con ông Lương Xuân D, sinh năm 1979 và con bà Nông Thị Đ, sinh năm 1982; bị cáo chưa có vợ, con. Tiền sự, Tiền án: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột từ ngày 25/11/2022 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra, trong vụ án còn có 01 bị cáo Nguyễn Huy T không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Trung H, Nguyễn Huy T và Lương Văn H1 có mối quan hệ quen biết nhau, đều là đối tượng sử dụng trái phép ma túy. Sáng ngày 25/11/2022, H1 sử dụng điện thoại di động hiệu Realme C30s kèm sim 0915.077.683 nhắn tin rủ H cùng góp tiền mua ma túy về sử dụng. Đến trưa cùng ngày, H sử dụng điện thoại di động hiệu Oppo kèm sim 0799.378.382 gọi đến số của H1 để bán Camera của H với giá 400.000 đồng lấy tiền góp mua ma túy thì H1 đồng ý mua. Do cả hai không biết người bán ma túy nên rủ T tìm mua cùng sử dụng thì T đồng ý. H nói H1 chuyển số tiền 550.000 đồng (Trong đó H góp 400.000 đồng, H1 góp 150.000 đồng) qua số tài khoản 1014312496 của T mở tại Ngân hàng X Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Đắk Lắk để T rút 500.000 đồng mua ma túy, còn 50.000 đồng để đổ xăng thì H1 đồng ý. T sử dụng điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A30s kèm sim 0941.947.447 liên lạc đến số 0585.075.006 của 01 người nam giới (không rõ lai lịch) thì được người này hẹn đến quán cà phê M, địa chỉ số 414 V, phường K, thành phố B. Sau đó, H1 điều khiển xe mô tô BKS 47B2 - xxx chở T ngồi sau cùng lên thành phố B để mua ma túy. Đến nơi, H1 đứng ngoài đợi còn T 01 mình vào trong quán cà phê đưa cho người nam giới số tiền 500.000đ thì người này đưa lại gói thuốc lá bên trong có 01 gói nylon chứa chất rắn dạng tinh thể. Mua được ma túy, T ra xe nơi H1 đứng đợi, bỏ ma túy vào hộc phía trước xe rồi cả hai điều khiển xe đi về thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện bắt quả tang. Thu giữ trong hộc phía trước của xe mô tô BKS 47B2 - xxx một gói nylon bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng đã được niêm phong theo quy định pháp luật.

Căn cứ lời khai của Lương Văn H1 và Nguyễn Huy T, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Trung H.

Tại Kết luận giám định số 1185/KL-KTHS ngày 02/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk đã kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,2411 gam.

Đồ vật, tài liệu bị tạm giữ: Ngày 25/11/2022, khi bị bắt ngoài việc tạm giữ ma túy, còn tạm giữ 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S8 kèm sim 0393.567.847, 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A30S kèm sim 0942.347.632, 0941.947.447 và 01 xe mô tô BKS 47B2 - xxx của bị cáo Nguyễn Huy T; 01 điện thoại di động hiệu Realme C30s kèm sim số 0915.077.683 của bị cáo Lương Văn H1; 01 điện thoại di động hiệu Oppo kèm sim 0799.378.382 của bị cáo Nguyễn Trung H.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 45/2023/HS-ST ngày 22/02/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã quyết định:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Trung H, Lương Văn H1 và Nguyễn Huy T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trung H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/11/2022.

Xử phạt: Bị cáo Lương Văn H1 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/11/2022.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Huy T 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/11/2022.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo cho các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 23/02/2023, bị cáo Nguyễn Trung H, Lương Văn H1 có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Các bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo, thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình.

Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo: Về tội danh và điều luật áp dụng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét mức hình phạt 02 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Nguyễn Trung H và bị cáo Nguyễn Huy T là có phần nghiêm khắc so với với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Nguyễn Trung H và bị cáo Nguyễn Huy T với mức hình phạt của mỗi bị cáo từ 01 năm, 06 tháng tù đến 01 năm, 09 tháng tù. Đối với bị cáo Nguyễn Huy T mặc dù bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị do bản ản phúc thẩm xử phạt bị cáo có phần nghiêm khắc nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T với mức hình phạt 01 năm, 03 tháng tù để thể hiện sự công bằng giữa các bị cáo trong cùng vụ án.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Tại tòa, các bị cáo không tranh luận gì thêm, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Do ý thức coi thường pháp luật nên vào khoảng 15 giờ 45 phút ngày 25/11/2022, trước quán cà phê M, phường K, thành phố B các bị cáo Nguyễn Huy T và Lương Văn H1 có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Thu giữ trong hộc phía trước của xe mô tô BKS 47B2 - xxx một gói nylon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,2411gam. Đây là ma túy đá bị cáo T, H1 cùng góp tiền với bị cáo Nguyễn Trung H mua về để sử dụng chung. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Nguyễn Trung H, Nguyễn Huy T và Lương Văn H1 về tội “tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2] Xét mức hình phạt 02 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt các bị cáo Nguyễn Trung H, Lương Văn H1 là nghiêm khắc so với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra. Bởi lẽ, các bị cáo Nguyễn Trung H, Lương Văn H1, Nguyễn Huy T tàng trữ trái phép 0,2411 gam ma túy loại Methamphetamine (chỉ hơn mức khởi điểm 0,1411 gam), thuộc trường hợp được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù; các bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, để giảm cho các bị cáo H, H1 một phần hình phạt có như vậy mới thể hiện được sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật. Đối với bị cáo Nguyễn Huy T không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị nhưng Hội đồng xét xử xét thấy cần giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo có như vậy mới thể hiện được sự công bằng giữa các bị cáo trong cùng một vụ án.

[3] Về án phí: Do kháng cáo được Hội đồng xét xử chấp nhận nên các bị cáo Nguyễn Trung H, Lương Văn H1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

[1] Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Trung H, Lương Văn H1 - Sửa bản án sơ thẩm số 45/2023/HS-ST ngày 22/02/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt: Nguyễn Trung H 01 năm, 06 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 25/11/2022.

Xử phạt: Lương Văn H1 01 năm, 02 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 25/11/2022.

Xử phạt: Nguyễn Huy T 01 năm, 02 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 25/11/2022.

[2] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Trung H, Lương Văn H1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 94/2023/HS-PT

Số hiệu:94/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về