TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 93/2023/HS-ST NGÀY 19/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 76/2023/TLST - HS ngày 23 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2023/QĐXXST – HS ngày ngày 07 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:
HỒ HOÀI P, sinh năm 1997, tại Tây Ninh; trú tại: nhà số B, hẻm C, đường T, ấp L, xã T, thị xã H, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Tấn K và bà Trần Thị Mỹ Â; bị cáo có vợ là Bùi Thị Cẩm T và 02 người con; Tiền án: Không có.
Tiền sự:
- Tại Quyết định xử lý vi phạm hành chính số: X/QĐ – XPHC ngày 02/11/2021 của Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh đã xử phạt hành chính số tiền 4.000.000 đồng về hành vi: “Gây rối trật tự công cộng”.
- Tại Quyết định xử lý vi phạm hành chính số: 75/QĐ – XPHC ngày 07/12/2022 của Ủy ban nhân dân thị xã H, tỉnh Tây Ninh đã xử phạt hành chính số tiền 21.500.000 đồng về hành vi: “Cố ý gây thương tích và sử dụng công cụ hỗ trợ”.
- Tại Quyết định xử lý vi phạm hành chính số: 04/QĐ – XPHC ngày 20/01/2023 của Ủy ban nhân dân xã T, thị xã H, tỉnh Tây Ninh đã xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi: “Sử dụng trái phép chất ma tuý”.
Nhân thân:
- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2018/HSST ngày 10/7/2018, Toà án nhân dân huyện Hoà Thành đã áp dụng khoản 1 Điều 314 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội: “Không tố giác tội phạm” (đã xử phúc thẩm tại Bản án hình sự phúc thẩm số: 125/2018/HSPT ngày 27/11/2018 của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh). Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 80/2018/HSST ngày 30/11/2018, Toà án nhân dân huyện Hoà Thành, đã áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 1 Điều 54; điều 56 của Bộ luật Hình sự, xử phạt 01 (một) năm tù về tội: “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt của 02 bản án, bị cáo chấp hành hình phạt chung là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, chấp hành xong bản án hình phạt ngày 27/3/2020 (đã được xoá án tích).
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/6/2023, chuyển tạm giam từ ngày 09/6/2023 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa; nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Hồ Hoài P là đối tượng sử dụng ma tuý. Vào lúc 11 giờ ngày 03/6/2023, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an tỉnh T phối hợp với Công an thị xã H tiến hành kiểm tra hành chính nơi ở của bị cáo P tại số nhà B, hẻm C, đường T, xã T, thị xã H, tỉnh Tây Ninh. Lúc này, bị cáo P cùng vợ là Bùi Thị Cẩm T đang ở trong phòng ngủ, khi biết Công an kiểm tra, bị cáo P lấy bịch nylon chứa chất ma tuý mình đang cất giữ đem xé rách miệng đổ tất cả ma tuý trong bịch vào bồn cầu nhà vệ sinh trong phòng ngủ thì bị Công an phát hiện, vớt ra thu giữ mẫu chất rắn màu trắng, để khô tiến hành niêm phong theo đúng quy định (ký hiệu M1). Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị cáo P, Công an thu giữ 01 chai nhựa, trên nắp có 02 lỗ cắm ống hút nhựa; 01 nỏ thuỷ tinh, bên trong nỏ có chứa chất rắn màu nâu niêm phong (ký hiệu M2); 01 khẩu súng ổ quay (Ru lô), bên trong ổ đạn có 06 viên đạn và 01 số đồ vật, tài liệu khác có liên quan.
Kết quả điều tra thể hiện: Khoảng 18 giờ, ngày 02/6/2023, bị cáo P đến giúp mẹ ruột là bà Trần Thị Mỹ Â dọn nhà tại ấp L, xã T, thị xã H. Trong lúc dọn phòng ngủ của bà Â, (bà Â sống chung như vợ chồng với ông Từ Huỳnh Khắc H, là bị can đang bị tạm giam trong vụ án vận chuyển trái phép chất ma tuý), bị cáo P phát hiện 01 túi vải màu đen, bên trong có 01 khẩu súng ổ quay và 06 viên đạn trong ổ đạn cùng với 01 bịch ma tuý, nên bị cáo P lấy túi vải chứa ma tuý và súng đạn đem về nhà cất hết, thì bị Công an kiểm tra, bị cáo P đem số ma tuý còn lại đổ vào bồn cầu nhằm tiêu huỷ thì bị bắt quả tang.
Tại kết luận giám định số 830/KL – KTHS ngày 06/6/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh T, kết luận:
- Mẫu chất rắn màu trắng bên trong 01 bịch nylon (ký hiệu M1) gửi giám định là chất ma tuý; loại Methamphetamine; khối lượng 1,481 gam.
- Mẫu chất rắn màu nâu bên trong 01 nỏ thuỷ tinh (ký hiệu M2) gửi giám định là chất ma tuý; loại Methamphetamine; khối lượng 0,0948 gam.
Tại kết luận giám định số 3804/KL – KTHS ngày 12/6/2023 của Phân viện khoa học hình sự - Bộ C1 tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:
- Khẩu súng quay gửi giám định là súng chế tạo thủ công, một nòng nhẫn sử dụng để bắn với đạn cỡ (5,6 x 15,5) mm. Hiện tại bộ phận chính của súng có đủ, lắp ráp đúng vị trí và bắn được đạn nổ. Khẩu súng nêu trên là vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng và thuộc nhóm vũ khí quân dụng.
- 06 (sáu) viên đạn, đít đạn cùng ký hiệu C gửi giám định là đạn thể theo cỡ (5,6 x 15,5) mm và không phải vũ khí quân dụng. Loại đạn này thường được sử dụng để bắn cho một số loại súng thể thao, súng quân dụng như: súng ám sát hình bút, K55, TOZ8…, khẩu súng ổ quay gửi giám định và một số súng chế tạo thủ cộng có đường kính buồng đạn 06mm.
Quá trình điều tra, bị cáo P đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình.
Về kê biên tài sản: Qua xác minh bị cáo không có tài sản nên không kê biên. Bản cáo trạng số: 76/CT - VKSHT ngày 23 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hòa Thành đã truy tố bị cáo Hồ Hoài P về các tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo điểm c khoản 1 Điều 249 và khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hòa Thành giữ quyền công tố, trong phần tranh luận đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Hồ Hoài P về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội: “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hồ Hoài P mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.
Căn cứ khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hồ Hoài P mức án từ 01 năm đến 02 năm tù.
Căn cứ Điều 55 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt chung đối với bị cáo là từ 02 năm 06 tháng đến 04 năm tù.
Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có tài sản nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày: Bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm hình phạt cho bị cáo để bị cáo về lo cho gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hòa Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Hồ Hoài P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, các kết luận giám định, lời khai của người làm chứng, vật chứng vụ án cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định: Bị cáo Hồ Hoài P là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, là đối tượng sử dụng ma túy. Bị cáo có hành vi cất giữ bất hợp pháp 1,5229 gam chất ma túy loại Methamphetamine để bản thân sử dụng. Ngoài ra, bị cáo còn có hành vi cất giữ bất hợp pháp 01 khẩu súng ổ quay thuộc nhóm vũ khí quân dụng. Do đó, hành vi của bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hòa Thành truy tố về các tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 và khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3]. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[3.1]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và xâm phạm chế độ quản lý, sử dụng vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị tại địa phương. Ma túy là hiểm họa của con người, cộng đồng và xã hội, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Súng ổ quay là vũ khí quân dụng có tính sát thương cao. Bị cáo ý thức được hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, hành vi tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn tàng trữ ma tuý để sử dụng ma túy và tàng trữ súng trong nhà của mình, thể hiện thái độ xem thường pháp luật của bị cáo. Cần có mức án thật nghiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa.
[3.2]. Tuy nhiên, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[3.3]. Do đó, mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hòa Thành đề nghị là có căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét.
[4]. Hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có tài sản nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[5]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- 01 (một) bì thư được niêm phong, bên ngoài ghi số 830/gói 1, có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn N, Trợ lý giám định Phan Quốc V và dấu tròn màu đỏ của Phòng K1 Công an tỉnh T, bên trong có 01 bịch nylon chứa chất rắn màu trắng (ký hiệu M1) là chất ma tuý, loại Methamphetamine, khối lượng 1,2012 gam là chất ma tuý cần tịch thu tiêu huỷ.
- 01 (một) bì thư được niêm phong, bên ngoài có ghi số 830/gói 2, có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn N, Trợ lý giám định Phan Quốc V và dấu tròn màu đỏ của Phòng K1 Công an tỉnh T, bên trong có 01 nỏ thuỷ tinh (ký hiệu M2) là dụng cụ sử dụng ma tuý cần tịch thu tiêu huỷ.
- Tịch thu tiêu huỷ các vật chứng không còn giá trị sử dụng gồm:
+ 01 (một) bịch nylon hàn kín ba đầu, 01 đầu khoá bóp có viền màu trắng;
+ 01 (một) bịch nylon hàn kín ba đầu, 01 đầu khoá bóp có viền màu trắng (đã bị xé rách).
+ 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma tuý gồm: 01 (một) chai nhựa có nắp đậy màu trắng, trên nắp đậy có hai lỗ tròn, 01 lỗ tròn có gắn ống hút nhựa màu trắng.
+ 01 (một) túi vải màu đen có chữ Dior.
- Trả lại cho bị cáo các vật chứng không liên quan đến việc phạm tội gồm:
+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone (đã bị hỏng);
+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, số Imei 1: 357345085619920, số Imei 2: 357345087918924, bên trong điện thoại có gắn 01 sim số 0972.376.X.
+ 01 (một) sim điện thoại số thuê bao 0857.335.X, trên thẻ sim có số 89840X0 và số 11442X695 có đề chữ vinaphone.
+ 01 (một) ví da màu đen.
+ 01 (một) căn cước công dân số 072097005X, mang tên Hồ Hoài P.
+ 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe số 029X, biển số 70F1 – X mang tên Võ Văn H1.
+ 01 (một) thẻ nhựa có chữ MB VISA, số Serial: EY091L2.
+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, biển số 70K7 – X, số khung: LSBE49L050167685, số máy: không xác định, kèm theo bản Kết luận giám định số 1187/KL – KTHS (sao y).
+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Satria, biển số 70E 1 – X, số khung: GLSDL11ANJV114747, số máy: CCGA1 – 514745.
+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, biển số 61B1 – X, số khung: U120U – A38532, số máy: F124 – 123532, kèm theo bản Kết luận giám định số 1187/KL – KTHS (sao y).
+ 01 (một) xe mô tô biển số 70RA – X6, màu sơn: đỏ, số khung: B1VH91000832, số máy: FMBXD 000832.
+ 01 (một) xe mô tô không biển số, số khung: 900001008, số máy: 00001008.
+ 01 (một) xe mô tô không biển số, số khung: không có; số máy: G53FHH001003.
+ 01 (một) bì thư được niêm phong, có chữ ký của Giám định viên Phạm Ngọc C và dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuận hình sự Công an tỉnh T bên trong có 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng), gồm 20 tờ tiền Việt Nam đồng (P), mỗi tờ tiền mệnh giá X.000 đồng.
- Giao cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh T quản lý, xử lý theo quy định các vật chứng gồm:
+ 01 (một) khẩu súng ổ quay tự chế dạng Ru lô (màu đen, tay cầm màu nâu, bằng nhựa cứng), Ký hiệu: WG, số hiệu: 20TH0382.
+ 06 (sáu) viên đạn tự chế, cỡ (5,6 x 15,5) mm, đầu đạn cao su, vỏ đạn kim loại vàng, đít đạn ký hiệu: “C”.
[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Hồ Hoài P phạm các tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Hồ Hoài P 02 (hai) năm tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Hồ Hoài P 01 (một) năm tù về tội: “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.
Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự, bị cáo Hồ Hoài P phải chấp hành hình phạt chung là: 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 03/6/2023
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2.1. Tịch thu tiêu huỷ:
+ 01 (một) bì thư được niêm phong, bên ngoài ghi số 830/gói 1, có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn N, Trợ lý giám định Phan Quốc V và dấu tròn màu đỏ của Phòng K1 Công an tỉnh T, bên trong có 01 bịch nylon chứa chất rắn màu trắng (ký hiệu M1), loại Methamphetamine, khối lượng 1,2012 gam.
+ 01 (một) bì thư được niêm phong, bên ngoài có ghi số 830/gói 2, có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn N, Trợ lý giám định Phan Quốc V và dấu tròn màu đỏ của Phòng K1 Công an tỉnh T, bên trong có 01 nỏ thuỷ tinh (ký hiệu M2).
+ 01 (một) bịch nylon hàn kín ba đầu, 01 đầu khoá bóp có viền màu trắng;
+ 01 (một) bịch nylon hàn kín ba đầu, 01 đầu khoá bóp có viền màu trắng (đã bị xé rách).
+ 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma tuý gồm: 01 (một) chai nhựa có nắp đậy màu trắng, trên nắp đậy có hai lỗ tròn, 01 lỗ tròn có gắn ống hút nhựa màu trắng.
+ 01 (một) túi vải màu đen có chữ Dior.
2.2. Trả lại cho bị cáo:
+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone (đã bị hỏng);
+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, số Imei 1: 357345085619920, số Imei 2: 357345087918924, bên trong điện thoại có gắn 01 sim số 0972.376.X.
+ 01 (một) sim điện thoại số thuê bao 0857.335.X, trên thẻ sim có số 89840X0 và số 11442X695 có đề chữ vinaphone.
+ 01 (một) ví da màu đen.
+ 01 (một) căn cước công dân số 072097005X, mang tên Hồ Hoài P.
+ 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe số 029X, biển số 70F1 – X mang tên Võ Văn H1.
+ 01 (một) thẻ nhựa có chữ MB VISA, số Serial: EY091L2.
+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, biển số 70K7 – X, số khung: LSBE49L050167685, số máy: không xác định, kèm theo bản Kết luận giám định số 1187/KL – KTHS (sao y).
+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Satria, biển số 70E 1 – X, số khung: GLSDL11ANJV114747, số máy: CCGA1 – 514745.
+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, biển số 61B1 – X, số khung: U120U – A38532, số máy: F124 – 123532, kèm theo bản Kết luận giám định số 1187/KL – KTHS (sao y).
+ 01 (một) xe mô tô biển số 70RA – X6, màu sơn: đỏ, số khung: B1VH91000832, số máy: FMBXD 000832.
+ 01 (một) xe mô tô không biển số, số khung: 900001008, số máy: 00001008.
+ 01 (một) xe mô tô không biển số, số khung: không có; số máy: G53FHH001003.
+ 01 (một) bì thư được niêm phong, có chữ ký của Giám định viên Phạm Ngọc C và dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuận hình sự Công an tỉnh T bên trong có 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng), gồm 20 tờ tiền Việt Nam đồng (P), mỗi tờ tiền mệnh giá X.000 đồng.
2.3. Giao cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh T quản lý, xử lý theo quy định:
+ 01 (một) khẩu súng ổ quay tự chế dạng Ru lô (màu đen, tay cầm màu nâu, bằng nhựa cứng), Ký hiệu: WG, số hiệu: 20TH0382.
+ 06 (sáu) viên đạn tự chế, cỡ (5,6 x 15,5) mm, đầu đạn cao su, vỏ đạn kim loại vàng, đít đạn ký hiệu: “C”.
3. Về án phí: Bị cáo Hồ Hoài P phải chịu X.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 93/2023/HS-ST
Số hiệu: | 93/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Hoà Thành - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về