Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 92/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 92/2024/HS-ST NGÀY 22/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 04 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh N xét xử vụ án hình sự thụ lý số 85/2024/HSST ngày 25 tháng 03 năm 2024,theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 100/2024/QĐXXST-HS ngày 02/04/2024,đối với các bị cao:

1. Họ và tên: Trần Văn H; Tên gọi khác: không; Sinh ngày: 23/10/1989; Nơi sinh: huyện T, tỉnh N;Nơi cư trú: Thôn M, xã T, huyện T, tỉnh N; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do;Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông: Trần Văn H và bà Hồ Thị H; Vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1993 (đã ly hôn); Có 02 con; Tiền án, tiền sự, nhân thân: không; Bị cáobị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/12/2023, đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N.Có mặt.

2. Họ và tên: Phan Công T; Tên gọi khác: không; Sinh ngày: 15/09/1983; Nơi sinh: thành phố V, tỉnh N; Nơi cư trú: Khối 8, phường T, thành phố V, tỉnh N; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông: Phan Văn L và bà Hồ Thị L; Vợ: Phạm Thị Hương T, sinh năm 1988; Có 02 con; Tiền án, tiền sự, nhân thân: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/12/2023, đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N.Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:Trần Văn H và Phan Công T là những người nghiện chất ma túy, quen biết nhau từ trước. Vào khoảng 11 giờ 45 phút ngày 31/12/2023, T gặp H tại quán cà phê G ở số 49, đường Phong Đình Cảnh thuộc phường Bến Thủy, thành phố V, tỉnh N. Tại đây, do có nhu cầu sử dụng ma túy đá nên T nhờ H mua hộ cho T 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) tiền ma túy đá để về sử dụng, H đồng ý. T đưa cho H 01 (một) tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng. H cầm tiền rồi mượn xe mô tô nhãn hiệu Piaggio Lirbety, màu trắng, biển số 38K1 xxxxx của chị Vũ Thị N (sinh ngày 20/01/1972, trú tại xóm Nam Thịnh, xã Diễn Ngọc, huyện D, tỉnh N) đi xuống khu vực phường Nghi Hải, thị xã Cửa Lò, tỉnh N gặp người đàn ông tên Sáng (không rõ lai lịch, địa chỉ) để mua ma túy. H mua của Sáng 01 (một) gói ma túy đá với giá 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) và 01 (một) gói ma túy Heroine với giá 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng). Sau đó, H đi xe mô tô quay về quán cà phê G gặp T (trên đường về, H đổ xăng hết 100.000 đồng). Vào hồi 12 giờ 40 phút ngày 31/12/2023, khi H điều khiển xe mô tô đi đến số 386, đường Lê Viết Thuật thuộc xã Hưng Lộc, thành phố V, tỉnh N thì bị tổ công tác Công an xã Hưng Lộc kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, tổ công tác phát hiện, thu giữ bên trong túi áo khoác phía trước ngực bên phải mà H đang mặc 01 (một) gói polytylen màu trắng chứa chất tinh thể màu trắng (nghi là ma túy đá) và 01 (một) gói giấy màu trắng chứa chất bột màu trắng (nghi là ma túy Heroine). H khai nhận gói ma túy đá là do H mua hộ cho T để T sử dụng, còn gói ma túy Heroine là do H mua về để sử dụng. Tạm giữ 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Piaggio Lirbety, màu trắng, biển số 38K1 xxxxx. Người và tang vật được đưa về trụ sở Công an xã Hưng Lộc, thành phố V lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Đến khoảng 14 giờ 30 phút ngày 31/12/2023, khi T đang ngồi chờ H tại quán cà phê G thì bị Công an xã Hưng Lộc yêu cầu về trụ sở làm việc. Tại đây, biết Cơ quan Công an đang điều tra và nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình, T đã xin đầu thú, khai nhận hành vi nhờ H mua hộ ma túy đá cho mình.

Tại Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại ngày 31/12/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố V và Kết luận giám định số 115/KL-KTHS(Đ2-MT) ngày 05/01/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: “Mẫu chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M1) thu giữ của Trần Văn H gửi giám định là ma túy; loại Methamphetamine. Số chất tinh thể màu trắng thu giữ của Trần Văn H có khối lượng là 0,204 g (không phẩy hai trăm linh bốn gam). Mẫu chất cục bột màu trắng (ký hiệu M2) thu giữ của Trần Văn H gửi giám định là ma túy; loại Heroine (Heroin), có tên khoa học là: Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định về các danh mục chất ma túy và tiền chất. Số chất cục bột màu trắng thu giữ của Trần Văn H có khối lượng là 0,025 g (không phẩy không trăm hai mươi lăm gam).” Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố V, Trần Văn H và Phan Công T đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng của vụ án: 0,204 gam ma túy loại Methamphetamine, đã lấy 0,100 gam gửi đi giám định, còn lại 0,104 gam; 0,025 gam ma túy loại Heroine (Heroin), đã lấy toàn bộ gửi đi giám định. Vật chứng hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố V.

Quá trình điều tra, xác địnhchiếc xe mô tô nhãn hiệu Piaggio Lirbety, màu trắng, biển số 38K1 xxxxx chị Vũ Thị N (sinh ngày 20/01/1972, trú tại xóm Nam Thịnh, xã Diễn Ngọc, huyện D, tỉnh N, chủ quán cà phê G)- là người chủ sở hữu hợp pháp; khi cho Trần Văn H mượn xe mô tô, chị N không biết H sử dụng làm phương tiện để đi mua ma túy về sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố V đã trả lại xe mô tô cho chị N.

Bản cáo trạng số 100/CT-VKS-TPV ngày 25/03/2024,của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh N truy tố bị cáo Trần Văn H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Bị cáo Phan Công T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh N giữ nguyên cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 17 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn H từ15-18 tháng tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 17 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phan Công T từ 12-15 tháng tù.

Về vật chứng: Áp dụng điểm khoản 1Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01(một)phong bì thư niêm phong dán kín thu giữ vật chứng củaTrần Văn H;

Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Trần Văn H, Phan Công T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa ngày hôm nay các bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết và không tranh luận gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung:

[2.1]: Tại phiên toà hôm nay các bị cáo Trần Văn H, Phan Công T khai nhận như sau:Vào hồi 12 giờ 40 phút ngày 31/12/2023, tại số 386, đường Lê Viết Thuật thuộc xã Hưng Lộc, thành phố V, tỉnh N, Trần Văn H đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,204 gam ma túy loại Methamphetamine mua hộ cho Phan Công T để T sử dụng và 0,025 gam ma túy loại Heroine (Heroin) để H sử dụng thì bị tổ công tác Công an xã Hưng Lộc, thành phố V kiểm tra hành chính, phát hiện bắt quả tang. Như vậy, lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của các bị cáo trong giai đoạn điều tra, lời khai của người làm chứng; Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Do đó, hành vi của bị cáoTrần Văn H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy", quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; Hành vi của bị cáo Phan Công T đã phạm vàotội “Tàng trữ trái phép chất ma túy", quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết.

[2.2]. Vụ án thuộc loại nghiêm trọng, có đồng phạm nhưng giản đơn, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước đối với các chất gây nghiện, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội. Các bị cáo đều nhận thức được tác hại nhiều mặt của ma túy vẫn tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm việc cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ để cải tạo giáo dục riêng cũng như phòng ngừa chung trong xã hội Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, bị cáo T sau khi phạm tội đã đến cơ quan Công an đầu thú, bị cáo H có ông nội có công cách mạng được tặng H chương kháng chiến nên cần áp dụng cho các bị cáo được hưởng T tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo như đại diện Viện kiểm sát đề nghị cũng đủ nghiêm.

[2.3]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đ đến 500.000.000 đồng, nhưng xét thấy bị cáo hiện nay không có công ăn việc làm ổn định nên miễn cho các bị cáo.

[2.4]. Về vật chứng: Ma túy thu giữ của bị cáo H, T là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Trong vụ án này, theo lời khai của Trần Văn H về người đàn ông tên Sáng đã bán ma túy cho H không rõ lai lịch, địa chỉ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố V không có cơ sở để kết luận.

[2.5]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn H 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/12/2023.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phan Công T 12 (mười hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/12/2023.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự;

điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01(một) phong bì thư niêm phong dán kín có đặc điểm theo phiếu nhập kho số NK 2024/143 ngày 05/04/2024, hiện có tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố V.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Trần Văn H, Phan Công T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Văn H, Phan Công T có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

68
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 92/2024/HS-ST

Số hiệu:92/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về