Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 92/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 92/2022/HS-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 84/2022/TLST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 93/2022/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Văn L, sinh ngày 09 tháng 8 năm 1997 tại H; nơi cư trú: Thôn 7, xã CM, huyện T, thành phố H; nơi tạm trú: Thôn 11, xã CM, huyện T, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn C và bà Nguyễn Thị S; chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 29/5/2022 đến ngày 07/6/2022 chuyển tạm giam; có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Văn T, sinh năm 2000; địa chỉ: Thôn 7, xã CM, huyện T, thành phố H; có mặt.

Người chứng kiến: Anh Đồng Xuân C và ông Nguyễn Văn K; đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 20 giờ 45 ngày 28/5/2022, tại đường 359C thuộc địa phận thôn SX, xã TĐ, huyện T, thành phố H, tổ tuần tra HP22 – Công an huyện Tkết hợp với Công an xã T bắt quả tang Trần Văn L, sinh năm 1997, nơi thường trú: thôn 7, xã CM, huyện T, thành phố H, nơi ở thôn 11, xã CM, huyện T, thành phố H có biểu hiện nghi vấn cất giấu trái phép chất ma túy. Tiến hành kiểm tra, lực lượng Công an thu giữ tại túi quần phía trước bên phải của Trần Văn L đang mặc có 01 ống hút nhựa màu vàng, hàn kín hai đầu, bên trong chứa tinh thể màu trắng (nghi chất ma tuý). Tổ công tác đã đưa L cùng vật chứng về trụ sở Công an lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang. Khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Văn L, Cơ quan điều tra không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Tại bản Kết luận giám định số 231/KL-KTHS(MT) ngày 31/5/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hkết luận: Tinh thể màu trắng đựng trong ống hút nhựa màu vàng, hàn kín hai đầu thu tại túi quần phía trước bên phải của Trần Văn L là ma tuý, có khối lượng 0,19gam, là loại Methaphetamine.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Văn L khai nhận: Do nghiện ma túy nên khoảng 20 giờ ngày 28/5/2022, L một mình điểu khiển xe mô tô BKS 15B1-xxxxx từ nhà đến khu vực thôn S, xã TĐ, huyện T, thành phố H, mua của một người đàn ông không quen biết 01 ống hút nhựa màu vàng được hàn kín hai đầu bên trong chứa ma tuý đá với giá 300.000 đồng. Mua được ma tuý L cất vào túi quần phía trước bên phải rồi điều khiển xe mô tô về nhà. Đến khu vực đoạn đường 359C, thôn SX, xã TĐ, huyện T, thành phố Hthì bị lượng Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng như trên. Số ma túy trên L mua với mục đích để sử dụng cho bản thân, ngoài ra không có mục đích gì khác.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 phong bì niêm phong số 231MT/PC09 chứa chất ma túy, vỏ bao gói còn lại sau giám định, chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện Th quản lý; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha BKS 15B1-xxxxx Cơ quan điều tra tạm giữ của Trần Văn L, quá trình xác định chủ sở hữu hợp pháp là anh Trần Văn T, (là em ruột của L). Anh T cho L mượn xe để đi lại, không biết việc L mua và tàng trữ ma túy, Cơ quan điều tra đã trả lại xe trên cho anh T Tại Cáo trạng số 97/CT-VKS ngày 12 tháng 9 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố Hđã truy tố Trần Văn L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng đã nêu. Bị cáo đã thành khẩn khai báo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Trần Văn T khai anh T cho L mượn xe để đi lại, không biết việc L mua và tàng trữ ma túy, Cơ quan điều tra đã trả lại xe trên cho anh T nên anh không có yêu cầu gì.

Người chứng kiến vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đầy đủ lời khai có trong hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên sau khi phân tích đánh giá tính chất vụ án, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đặc điểm nhân thân bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trần Văn L từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 29/5/2022. Ngoài ra, Kiểm sát viên còn đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án này còn có đối tượng bán trái phép ma túy cho Trần Văn L, quá trình điều tra không xác định được căn cước, lai lịch nên không có cơ sở để điều tra xử lý.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Hành vi, quyết định tố tụng của thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Lời khai nhận của bị cáo Trần Văn L tại phiên tòa và lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang phù hợp với Kết luận giám định số 231/KL-KTHS(MT) ngày 31/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H, phù hợp với lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ kết luận: Ngày 28/5/2022, Trần Văn L có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy, có khối lượng 0,19 gam, loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân, bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang tại khu vực đoạn đường 359C, thôn SX, xã TĐ, huyện T, thành phố Hải Phòng. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc cá nhân không được sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền mà tự ý giữ, cất giấu ma túy là trái pháp luật. Nhưng vì bị cáo thường xuyên sử dụng ma túy nên bị cáo vẫn mua và cất giữ ma túy trong người để sử dụng cho bản thân. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, kết luận bị cáo Trần Văn L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy vi phạm điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và lượng hình: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên có thể xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đặc điểm nhân thân bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo là đối tượng thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục cải tạo riêng bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung. Thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam trước đó được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét bị cáo không có nghề nghiệp và không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Vật chứng của vụ án gồm phong bì niêm phong số 231MT/PC09 chứa chất ma túy, vỏ bao gói còn lại sau giám định. Xét các vật chứng nêu trên là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp với quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha BKS 15B1-xxxxx, Cơ quan điều tra đã trả lại chủ sở hữu hợp pháp là anh Trần Văn T nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Trong vụ án này còn có đối tượng bán trái phép ma túy cho Trần Văn L, quá trình điều tra không xác định được căn cước, lai lịch, không có cơ sở để điều tra xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: Bị cáo Trần Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Văn L 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/5/2022.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên: Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong số 231MT/PC09 chứa chất ma túy, vỏ bao gói còn lại sau giám định (Vật chứng có đặc điểm được mô tả tại biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 09 tháng 9 năm 2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện T, thành phố H).

Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm. thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử: Bị cáo Trần Văn L phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm ngày) kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 (mười lăm ngày) ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 92/2022/HS-ST

Số hiệu:92/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tây Hồ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về