TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU
BẢN ÁN 91/2023/HS-PT NGÀY 05/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 05 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 123/2023/HSPT ngày 01/8/2023 đối với bị cáo Lê Anh D do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 53/2023/HS-ST ngày 20/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Bị cáo có kháng cáo:
Lê Anh D (tức: Em L), sinh năm 1992 tại Bà Rịa - Vũng Tàu; Thường trú: Thôn Đ, xã C, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Nghề nghiệp: công nhân; Trình độ học vấn: 10/12; con ông Lê Văn A (sinh năm 1970) và bà Nguyễn Thị Thùy T (sinh năm 1974);
có vợ là Nguyễn Y P (sinh năm 1996) và 01 con sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo tại ngoại. (có mặt)
Ngoài ra trong vụ án còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng không kháng cáo và không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19h20’ ngày 18/01/2023, tại đường C - B thuộc thôn C, xã C, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Công an xã C kiểm tra phát hiện Lê Anh D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ tang vật gồm: 01 (một) gói nilon nhỏ trong suốt hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng, 01 (một) điện thoại di động Oppo màu hồng, 01 (một) xe mô tô Honda Vision màu đỏ nâu, biển số 72F1-X, số máy: JF86E5239861, số khung: RLHJF5835LZ511301.
Tại cơ quan điều tra, Lê Anh D khai nhận hành vi phạm tội của mình như sau: Khoảng 19h00’ ngày 18/01/2023, D điện thoại cho H (không rõ họ tên, địa chỉ) hỏi mua 500.000 đồng ma túy đá, hẹn gặp tại khu vực đường C - B thuộc thôn C, xã C, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. D chạy xe mô tô biển số 72F1- X đến địa điểm đã hẹn, gặp H chạy xe mô tô Yamaha Vario màu trắng xanh (không rõ biển số), đưa 500.000 đồng và nhận của H một bịch ma túy đá. Sau đó, H chạy xe về hướng xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai, còn D quay xe về nhà thì bị Công an kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang cùng ma tuý như đã nêu trên (BL 18-30).
Tại Kết luận giám định số 59/KL-KTHS-MT ngày 07/02/2023, Phòng K Công an tỉnh B kết luận: “Mẫu A gửi đến giám định có khối lượng 0,2563 gam, là ma túy, loại Methamphetamine” (BL 32).
2. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 53/2023/HSST ngày 20/6/2023, Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Lê Anh D (tức: Em L) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự, xử phạt Lê Anh D 15 (Mười lăm) tháng tù, tính từ ngày bắt chấp hành án.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
3. Ngày 04/7/2023, bị cáo Lê Anh D kháng cáo xin được hưởng án treo.
4. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, khai nhận hành vi phạm tội như đã khai tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm.
5. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm xét xử vụ án:
Về tố tụng: Bị cáo có đơn kháng cáo trong thời hạn luật định, đảm bảo về hình thức và chủ thể kháng cáo, do đó kháng cáo của bị cáo là hợp lệ.
Về nội dung: Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Lê Anh D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xử phạt bị cáo 15 (Mười lăm) tháng tù là phù hợp với nhân thân, tính chất, mức độ nguy hiểm trong hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo; xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm chứng cứ hay tài liệu nào mới để xem xét cho kháng cáo của bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo cho bị cáo hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn luật định, phù hợp với quy định của pháp luật về chủ thể kháng cáo, hình thức và nội dung đơn kháng cáo. Do vậy, kháng cáo của bị cáo là hợp lệ, được Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về tội danh và Điều luật áp dụng:
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xác định như sau:
Khoảng 19h20’ ngày 18/01/2023, tại đường C - B thuộc thôn C, xã C, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Lê Anh D bị Công an xã C kiểm tra phát hiện, bắt quả tang đang tàng trữ trái phép 0,2563 gam ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng.
Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Lê Anh D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương, là một trong những nguyên nhân làm gia tăng các loại tội phạm khác và tệ nạn xã hội. Là công dân trưởng thành, phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, bị cáo nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện để thỏa mãn nhu cầu của bản thân.
Vì vậy, phải có hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện, để đảm bảo tác dụng răn đe, cải tạo, giáo dục và đấu tranh phòng ngừa chung, đồng thời nêu cao tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nuôi một con nhỏ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Anh D 15 (Mười lăm) tháng tù là tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm trong hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không bổ sung tình tiết nào mới làm căn cứ xem xét cho kháng cáo của bị cáo. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm là có cơ sở nên Hội đồng xét xử quyết định không chấp nhận kháng cáo của bị cáo về việc xin hưởng án treo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
[4] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Anh D về việc xin hưởng án treo; giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm số 53/2023/HSST ngày 20/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, như sau:
Tuyên bố: Bị cáo Lê Anh D (tức: Em L) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lê Anh D 15 (Mười lăm) tháng tù, tính từ ngày bắt chấp hành án.
2. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 53/2023/HSST ngày 20/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Án phí hình sự phúc thẩm : Bị cáo Lê Anh D nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (05/9/2023).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 91/2023/HS-PT
Số hiệu: | 91/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về