TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG THÀNH PHỐ MÓNG CÁI, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 90/2023/HS-ST NGÀY 26/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố M xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 78/2023/TLST-HSST ngày 13 tháng 9 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2023; đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Hoàng H, tên gọi khác: không, sinh ngày 16 tháng 01 năm 1997, tại thị xã Đ, tỉnh Q. Nơi thường trú: tổ A, khu V, phường M, thị xã Đ, tỉnh Q; chỗ ở: số I đường Đ, khu B, phường K, thành phố M, tỉnh Q; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh S và bà Trần Thị H1; vợ, con: chưa có. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 12/5/2023. Hiện tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.
Những chứng kiến: ông Nguyễn Văn C. Vắng mặt tại phiên tòa
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 11/5/2023, Nguyễn Hoàng H đang ở phòng trọ tại số nhà I Đ thuộc khu B, phường K, thành phố M, thì được người phụ nữ tên là T (không rõ lai lịch, địa chỉ) nhắn tin qua ứng dụng T1 nói có 25 (hai mươi lăm) gam Ketamine muốn bán. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên H đồng ý mua, cả hai thỏa thuận 25 gam Ketamine giá là 28.000.000 đồng, T sẽ cất giấu ma túy trong hộp xốp kèm một ít hải sản và gửi qua xe ô tô khách ra thành phố M cho H, khi nào nhận được ma túy thì H sẽ chuyển tiền qua số tài khoản 0964725633 của Ngân hàng Q cho T. Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 12/5/2023, theo số điện thoại do T cung cấp, H liên lạc và đến bến xe khách M thuộc khu E, phường K, thành phố M nhận một hộp xốp bên trong chứa ma túy từ một nam thanh niên lái xe khách (không rõ biển kiểm soát), khi đang chuẩn bị đem về phòng trọ cất giấu để sử dụng dần thì bị Tổ công tác của Công an thành phố M phát hiện bắt quả tang.
Vật chứng thu giữ của H: 01 hộp xốp hình chữ nhật, kích thước khoảng (40x33x21)cm; bên trong có 01 (một) túi nilon trong suốt, miệng túi có khóa kẹp nhựa, kích thước khoảng (09x13)cm, bên trong túi chứa chất bột màu trắng và 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám, số IMEI1: 353893102121523, số IMEI2: 35389310235418 gắn sim số 0337.319.417 Tại bản Kết luận giám định số 595/KLGĐ ngày 18/5/2023, của Phòng K Công an tỉnh Q kết luận: Mẫu vật thu giữ của Nguyễn Hoàng H gửi giám định là ma túy; loại Ketamine; khối lượng: 24,8 gam (hai tư phảy tám gam).
Tại bản cáo trạng số 84/CT-VKSMC ngày 12 tháng 9 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố M truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng H về tội: “Tàng trữ chất ma túy” theo quy định tại điểm 1 khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo có lời khai phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát.
Người chứng kiến anh Nguyễn Văn C vắng mặt tại phiên tòa có lời khai tại cơ quan điều tra thể hiện: vào khoảng 00 giờ 30 phút ngày 12/5/2023 anh c được cơ quan Công an mời chứng kiến sự việc kiểm tra bắt quả tang đối với đối tượng Nguyễn Hoàng H về hành vi cất giấu ma túy trong thùng xốp tại khu vực bến xe khách thuộc khu E, phường K, thành phố M, tỉnh Q.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố tại bản cáo trạng về tội danh và khung hình phạt đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm 1 khoản 2 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và đề xuất mức hình phạt đối với bị cáo từ 5 năm 6 tháng đến 6 năm tù.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng: áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tịch thu tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định. Tịch thu tiêu hủy 01 hộp xốp màu trắng và 01 thẻ sim điện thoại. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại của bị cáo dùng vào việc mua ma túy.
Bị cáo không tranh luận gì với nội dung của bản luận tội, bị cáo thừa nhận việc truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội và trình bày lời nói sau cùng: xin giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ quá trình tranh tụng, các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, Bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt quả tang, vật chứng thu giữ, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và công bố công khai tại phiên toà, Hội đồng xét xử kết luận: khoảng 00 giờ 30 phút ngày 12/5/2023, tại khu vực khu vực gần bến xe khách M, thuộc khu E, phường K, thành phố M, bị cáo Nguyễn Hoàng H có hành vi cất giấu trái phép 24,8 gam (hai mươi bốn phẩy tám) gam Ketamine để sử dụng.
[3] Hành vi tàng trữ trái phép ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý. Bị cáo là người trưởng thành, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi, Như vậy hành vi của bị cáo đã có đủ các yếu tố cấu thành của tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” số ma túy 24,8 gam Ketamine thuộc trường hợp quy định tại điểm 1 khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Viện kiểm sát nhân dân thành phố M truy tố bị cáo với tội danh và điều luật như trên là có căn cứ và đúng pháp luật.
[4] Xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, do vậy cần thiết phải áp dụng mức hình phạt tù, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để bị cáo lấy đó làm bài học mà tu dưỡng, rèn luyện, cải tạo mình trở thành người công dân có ích.
[5] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6] Về hình phạt bổ sung là hình phạt xét bị cáo không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về vật chứng: số ma túy hoàn lại sau giám định là vật nhà nước cấm nên tịch thu tiêu hủy; chiếc điện thoại thu giữ của bị cáo là vật bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu sung ngân sách Nhà nước. Chiếc thẻ sim lắp trong chiếc điện thoại trên bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu tiêu hủy. Hộp xốp thu giữ của bị cáo bị cáo dùng để cất giấu ma túy nên tịch thu tiêu hủy
[8] Về đối tượng bán ma túy cho bị cáo tên T, qua xác minh không có thông tin liên quan đến số tài khoản, số điện thoại, không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.
[9] Đối với người lái xe ô tô khách đã vận chuyển và giao thùng xốp đựng túi ma tuý cho Nguyễn Hoàng H, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.
[10] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”
- Áp dụng điểm 1 khoản 2 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng H: 06 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12 tháng 5 năm 2023.
- Áp dụng: điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy có trong 01 phong bì được niêm phong có ghi “Phòng kỹ thuật hình sự. Đội giám định số: 595/KL-KTHS. Mẫu vật hoàn lại kèm theo kết luận giám định số 595 ngày 18/5/2023 vụ Nguyễn Hoàng H + Tịch thu tiêu hủy 01 hộp xốp màu trắng hình chữ nhật.
+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám số IMEI1: 353893102121523, số IMEI 2: 35389310235418 + Tịch thu tiêu hủy 01 thẻ sim lắp trong chiếc điện thoại trên.
(Tình trạng các vật chứng thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số 112/2023 ngày 12/9/2023 giữa Công an thành phố M với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố M) - Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 331, khoản 1,3 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 90/2023/HS-ST
Số hiệu: | 90/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Móng Cái - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về