Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 89/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 89/2024/HS-ST NGÀY 19/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 4 năm 2024 tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 87/2024/TLST-HS ngày 03 tháng 4 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2024/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Văn G, sinh ngày 29 tháng 9 năm 1984 tại: Nghệ An; số căn cước công dân: 040084009792; nơi đăng ký thường trú: Thôn A, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Thôn A, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn H và bà Hồ Thị H; vợ là Nguyễn Thị Thu H, và 02 con; Tiền án: Bản án số 295/2021/HSST ngày 23-11-2021 Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xử phạt Bùi Văn G 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự (chấp hành xong hình phạt tù ngày 12- 6-2023); Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 28-7-2009, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, thành phố H ra quyết định đình chỉ vụ án về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 25 Bộ luật Hình sự năm 1999 (do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa); Ngày 30-9- 2010, Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Nghệ An xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 25-3-2015, Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố H xử phạt 08 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Ngày 28-12-2017, Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xử phạt 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19-01-2024, chuyển tạm giam từ ngày 28- 01-2024 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố N. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Ông Trần Ngọc T Anh Phạm Quốc H

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 19-01-2024, tổ công tác Công an phường C, thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực vườn hoa hồ H, thuộc phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định phát hiện Bùi Văn G điều khiển xe máy Wave RSX biển kiểm soát 37N1 - X có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. G thả từ tay trái xuống đất 01 gói nhỏ quấn bằng băng dính màu đen, bên trong là lớp giấy màu trắng, trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (G khai là Heroine mua về để sử dụng). Tổ công tác đã thu giữ, niêm phong vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Bùi Văn G. Ngoài ra, tạm giữ của G 01 chiếc xe máy Wave RSX biển kiểm soát 37N1 - X và 01 điện thoại di động màu đen, đều đã cũ.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã ra quyết định trưng cầu giám định vật chứng thu giữ của Bùi Văn G. Bản kết luận giám định số 364/KL- KTHS ngày 25-01-2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 gói giấy màu trắng (gói giấy được quấn bên ngoài bằng băng dính màu đen), được niêm phong gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Heroine (Heroin). Khối lượng mẫu: 0,104 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Bùi Văn G khai nhận như sau: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 19-01-2024, G điều khiển xe máy Wave RSX biển kiểm soát 37N1 - X từ nhà đến một ngõ nhỏ ở khu vực hồ H, phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định gặp 01 người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) mua 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng. G cầm gói Heroine trong tay trái, điều khiển xe máy đi tìm chỗ sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ.

Bản cáo trạng số 93/CT-VKSND-TPNĐ ngày 01-4-2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố bị cáo Bùi Văn G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn G đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân như bản cáo trạng đã nêu.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Bùi Văn G tại phiên tòa thể hiện hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó Viện kiểm sát nhân dân thành phố N giữ nguyên nội dung bản cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Bùi Văn G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Bùi Văn G từ 21 tháng tù đến 24 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đã thu giữ của bị cáo Bùi Văn G.

Chiếc xe máy Wave RSX biển kiểm soát 37N1 - X và chiếc điện thoại di động là tài sản của Bùi Văn G, nên trả lại cho bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Buộc bị cáo Bùi Văn G nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Bùi Văn G nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn G không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo Bùi Văn G trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 19-01-2024; Biên bản thu giữ vật chứng ngày 19-01-2024; Bản kết luận giám định số 364/KL-KTHS ngày 25-01-2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; lời khai của những người làm chứng cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 19-01-2024, tại khu vực vườn hoa hồ H, thuộc phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định, Bùi Văn G đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,104 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo Bùi Văn G là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện; khối lượng Heroine bị cáo tàng trữ mục đích để sử dụng là 0,104 gam. Vì vậy bị cáo Bùi Văn G đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì bị cáo Bùi Văn G đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình. Bị cáo hiện đang hưởng chế độc chất độc da cam; bố, mẹ bị cáo có công với cách mạng nên bị cáo sẽ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” chưa được xoá án tích, phạm tội lần này thuộc trường hợp “Tái phạm” nên bị cáo chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về hình phạt:

Hành vi phạm tội của bị cáo Bùi Văn G là nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu đối với an ninh trật tự trên địa bàn thành phố N; bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, với mức hình phạt tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Xét thấy bị cáo Bùi Văn G không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử sẽ không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

Số ma túy thu giữ của bị cáo Bùi Văn G là vật cấm lưu hành nên sẽ tịch thu tiêu hủy.

Chiếc xe máy Wave RSX biển kiểm soát 37N1-X và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel là tài sản của Bùi Văn G không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bị cáo Bùi Văn G, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[7] Đối với đối tượng bán ma túy cho Bùi Văn G, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N tách ra để điều tra, xử lý sau.

[8] Về án phí:

Bị cáo Bùi Văn G bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Văn G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn G 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19-01-2024.

2. Xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy gói ma túy đã thu giữ trong phong bì niêm phong số 364/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định.

Trả lại cho bị cáo Bùi Văn G chiếc xe máy Wave RSX biển kiểm soát 37N1- X và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05-4-2024).

3. Án phí:

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Bùi Văn G phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Bị cáo Bùi Văn G có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo Bùi Văn G có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

110
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 89/2024/HS-ST

Số hiệu:89/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:19/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về