Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 86/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÒA BÌNH, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 86/2021/HSST NGÀY 28/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 7 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hòa Bình mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 88/2021/TLST – HS ngày 02 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 90/2021/QĐXXST – HS ngày 16/7/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phùng Sĩ T, Giới tính: Nam, Tên gọi khác: Không, Sinh năm 1963; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ A, phường T, thành phố H, tỉnh Hòa Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Con ông: Phùng Kim P (Đã chết); Con bà: Phùng Thị P (Đã chết); Vợ: Bùi Thị T, Sinh năm 1970 (Đã ly hôn) và có 01 con; Gia đình bị can có 04 anh chị em; bị can là con thứ nhất trong gia đình;

Tiền án, tiền sự: Không Về nhân thân:

- Ngày 03/4/1998 bị Công an thị xã Hòa Bình bắt xử phạt hành chính về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.

- Ngày 23/9/1999 bị Tòa án nhân dân thị xã Hòa Bình xử tù có thời hạn 24 tháng tù giam theo Bản án số 69/1999/HSST. Đã chấp hành xong hình phạt tù và án phí. Đối với khoản tiền phạt sung công, ngày 28/9/2009, Chi cục THADS thành phố Hòa Bình đã ra Quyết định đình chỉ thi hành án số 49/QĐTHA.

- Ngày 17/4/2006 bị bắt vào cơ sở chữa bệnh cai nghiện bắt buộc 12 tháng, chấp hành xong ngày 27/3/2007.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam giam từ ngày 05/4/2021, hiện đang bị tạm giữ, tạm giam tại trại tam giam công an tỉnh Hòa Bình, được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11h ngày 05/4/2021, Phùng Sĩ T, sinh năm 1963 đi bộ từ nhà thuộc khu vực tổ A, phường T, thành phố H đến khu vực đê Đà Giang thuộc tổ B, phường Đ, thành phố H, Hòa Bình với mục đích tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Tại đây, T gặp một người đàn ông không quen biết, qua trao đổi, T mua được của người đàn ông này 01 (một) gói ma túy với giá 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng). Sau đó, T cầm gói ma túy vừa mua được trong lòng bàn tay trái rồi đi bộ về nhà. Khi đi đến khu vực đường đê Đà Giang thuộc Tổ A, phường Đ, thành phố H thì bị tổ công tác Công an thành phố Hòa Bình phát hiện, bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ toàn bộ tang vật và niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại bản kết luận giám định số 101/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 12/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: "Mẫu chất bột màu trắng, hồng gói trong phong bì niêm phong ghi tên Phùng Sĩ T gửi giám định có tổng khối lượng 0,18g (Không phẩy mười tám gam) là ma túy, loại Heroine và Methamphetamine".

Quá trình điều tra, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, phù hợp với tài liệu, chứng cứ đã thu thập được.

Cáo trạng số: 88/CT-VKS ngày 02/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình truy tố bị cáo Phùng Sĩ T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản Cáo trạng. Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phùng Sĩ T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt Phùng Sĩ T từ 12 (mười hai) tháng đến 15 (mười lăm) tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX tịch thu, tiêu huỷ toàn bộ số ma túy đã hoàn trả sau giám định.

Phần tranh luận: Bị cáo không có tranh luận gì.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đã xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về hành vi mà bị cáo đã thực hiện xác định có tội hay không có tội: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, Phùng Sĩ T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, là đối tượng nghiện chất ma túy đã khai nhận: Ngày 05/04/2021 đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,18 gam ma túy loại Heroin và Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang tại khu vực thuộc đê Đà Giang, phường Đ, thành phố Hòa Bình.

Xét lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản mở niêm phong, cân xác định trọng lượng vật chứng thu giữ; Kết luận giám định vật chứng của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hành vi nêu trên của Phùng Sĩ T đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình đã truy tố.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo là người có nhân thân xấu: hai lần bị xử phạt hành chính, 01 lần bị xét xử nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Do vậy, cần có hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giúp bị cáo cải tạo thành công dân tốt.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Tình tiết trên được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, nên áp dụng cho bị cáo khi lượng hình.

Do bị cáo không nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về nguồn gốc ma túy, Phùng Sĩ T khai nhận đã mua được của một người đàn ông không quen biết, không rõ tên, tuổi, địa chỉ tại khu vực đê Đà Giang thuộc phường Đồng Tiến, thành phố Hòa Bình. Quá trình điều tra, xác minh hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể của người đàn ông đã bán ma túy cho T nên Cơ quan điều tra tiếp tục thu thập chứng cứ, tài liệu khi nào làm rõ sẽ xử lý theo quy định pháp luật.

[5] Về xử lý vật chứng: Số ma túy thu giữ của bị cáo được hoàn trả sau giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu, tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng: điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: bị cáo Phùng Sĩ T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Phùng Sĩ T 13 (mười ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 05/4/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong vật chứng hoàn trả sau giám định chất ma túy của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình mang tên Phùng Sĩ T. Mép dán niêm phong có dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình được bảo quản nguyên vẹn và có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số: 102/BB ngày 07/7/2021 giữa Công an thành phố Hòa Bình và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hoà Bình).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Bị cáo Phùng Sĩ T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 86/2021/HSST

Số hiệu:86/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về