Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 85/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 85/2023/HS-ST NGÀY 14/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 14 tháng 12 năm 2023 tại Hội trường của Tòa án nhân dân huyện Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lỷ số: 87/2023/TLHS-ST, ngày 23 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 84/2023/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lưu Việt D (tên gọi khác: Không); Giới tính: Nam; Sinh ngày: 16/10/1980; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Xóm N, xã H, huyện Đ tỉnh T; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh. Tôn giáo:

Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố đẻ: Lưu Xuân N, sinh năm 1947; Mẹ đẻ: Trần Thị L, sinh năm 1956; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ 3 trong gia đình; Vợ: Nguyễn Thị Như T, sinh năm 1983; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2013; Tiền án: Không. Tiền sự:

+ Ngày 01/11/2016, bị Công an huyện Đ xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (chưa nộp phạt).

+ Ngày 25/6/2023, bị Công an xã H xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền 1.500.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

+ Ngày 08/7/2023, bị Công an xã H xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền 1.500.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

+ Tại Quyết định số 147/QĐ-UBND ngày 20/7/2023 của Ủy ban nhân dân xã H về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với Lưu Việt D, thời gian chấp hành là 03 tháng.

- Nhân thân:

+ Năm 2018, bị Công an huyện Đ xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền 1.500.000đ về hành vi tàng trữ phép chất ma túy.

+ Năm 2022, bị Công an huyện thành phố T xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền 3.500.000đ về hành vi tàng trừ phép chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/9/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ. (Có mặt).

* Người chứng kiến:

- Ông Đỗ Xuân T1, sinh năm 1960; (Vắng mặt) Trú tại: Xóm N, xã H, huyện Đ, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ ngày 07/9/2023, tổ công tác Công an huyện Đ phối hợp cùng Công an xã H, huyện Đ tiến hành tuần tra, kiểm soát trên địa bàn xóm N, xã H, huyện Đ, phát hiện Lưu Việt D có biểu hiện liên quan đến ma túy. Quá trình kiểm tra, D khai nhận bản thân là người nghiện chất ma túy đồng thời tự giác lấy bên trong túi áo ngực bên trái đang mặc ra 01 gói nhỏ bằng giấy màu trắng (D khai là Heroine của D) giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của D tại xóm N, xã H, huyện Đ, kết quả không phát hiện thu giữ tài liệu đồ vật gì.

Tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của D là: 0,191 gam (lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu: A1).

Tại bản Kết luận giám định số 1105/KL-KTHS ngày 15/9/2023 của Phòng K Công an tỉnh T kết luận: Chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy; loại Heroine, khối lượng của mẫu gửi giám định là: 0,191 gam.

Quá trình điều tra xác định rõ: Bản thân D nghiện ma túy từ năm 2013 đến nay. Khoảng 09 giờ ngày 07/9/2023, D đi bộ từ nhà đến đường Q sau đó đi nhờ xe máy của người đi đường đến khu vực chợ C, thuộc tổ G, phường C, thành phố T với mục đích đề tìm mua Heroine về sử dụng cho bản thân. Tại khu vực chợ C, thành phố T, D gặp và mua của một người đàn ông khoảng hơn 40 tuổi, không biết tên và địa chỉ 01 gói Heroine với giá 100.000đ. Sau khi mua được H, D cất gói Heroine vào trong túi áo ngực sau đó đi nhờ xe của những người đi đường về đến xóm N, xã H, huyện Đ rồi đi bộ về nhà, trên đường đi về thì bị tổ công tác yêu cầu kiểm tra, bắt giữ. Số tiền bị cáo sử dụng để mua ma túy là của bị cáo do lao động mà có.

Vật chứng vụ án gồm: 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu A1 (bên trong có 0,181g mẫu AI còn lại sau giám định và vỏ bao mẫu).

- 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu LK (bên trong có vỏ phong bì niêm phong QT cùng mảnh giấy màu trắng). Hiện đang được lưu giữ, bảo quản theo quy định chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số: 90/CT-VKSĐH ngày 20/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Lưu Việt D về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Xác định tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Do đó,Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo thể hiện qua bản cáo trạng và đề nghị mức hình phạt như sau: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lưu Việt D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo D mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện, không nhằm mục đích mua bán, không có thu nhập ổn định và tài sản nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn kỷ hiệu A1, LK.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Trong lời nói sau cùng bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và bị truy tố, xét xử là không oan, xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đọc thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên,Viện kiểm sát huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không xuất trình thêm tài liệu chứng cứ; bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay bị cáo thừa nhận bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội. Lời khai nhận tội của bị cáo là khách quan phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, vật chứng, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ xác định:

Khoảng 10 giờ phút ngày 07/9/2023, tại khu vực xóm N, xã H, huyện Đ, tỉnh T, bị cáo Lưu Việt D đang có hành vi tàng trữ bị cáo cho là Heroine trong túi áo ngực bên trái đang mặc thì bị Tổ công tác Công an huyện Đ phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của D là: 0,191 gam (lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu: A1).

Tại bản Kết luận giám định số 1105/KL-KTHS ngày 15/9/2023 của Phòng K Công an tỉnh T kết luận: Chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy; loại Heroine, khối lượng của mẫu gửi giám định là: 0,191 gam.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249 BLHS quy định:

1.Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyn, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

c, H ...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”...

Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra theo điều luật nói trên.

[3] Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng các chất ma túy, hành vi đó của bị cáo gây ảnh hưởng xấu, gây mất trật tự trị an xã hội ở địa phương, là nguyên nhân phát sinh của những loại tội phạm khác. Do vậy cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định thì mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy:

Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, nhưng đã có nhiều tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bố đẻ bị cáo được tặng thưởng huân huy chương kháng chiến đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 BLHS.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo là đối tượng nghiện, không nhằm mục đích mua bán kiếm lời, không có thu nhập ổn định và tài sản nên miễn hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo.

[6] Vật chứng của vụ án: Áp dụng 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy vật chứng không có giá trị sử dụng gồm 02 bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu A1, LK.

[7] Về nguồn gốc số Heroine, bị cáo khai mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực chợ c, thành phố T nên Cơ quan cảnh sát điều tra không đủ cơ sở để điều tra làm rõ, xử lý.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa ngày hôm nay là có căn cứ nên được chấp nhận.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lưu Việt D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lưu Việt D 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 07/9/2023.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Miễn hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy vật chứng không có giá trị sử dụng gồm 02 (hai) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu A1; LK.

(Tình trạng vật chứng như trong biên bản giao vật chứng ngày 29/11/2023 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ).

Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 85/2023/HS-ST

Số hiệu:85/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về