Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 84/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 84/2022/HS-ST NGÀY 23/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 23 tháng 8 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 81/2022/TLST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2022/QĐXXST-HS ngày 10/8/2022, đối với bị cáo:

L T A, sinh ngày 09/12/1982 tại tỉnh Tuyên Quang.

Nơi cư trú: Tổ dân phố 05, phường T Q, thành phố T Q, tỉnh T Q Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông L V Q (đã chết) và bà Tạ Kim C, sinh năm 1960; vợ: Ma Phương D, sinh năm 1987; con: Có 01 con, sinh năm 2009;

* Tiền án:

- Bản án số 141 ngày 27/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xử phạt L T A 01 năm tù về tội trộm cắp tài sản (chấp hành xong bản án ngày 27.4.2018) - Bản án số 136 ngày 28/10/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang xử phạt L T A 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (trị giá tài sản trộm cắp 1.050.000đ).

- Bản án số 07 ngày 18/02/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xử phạt L T A 01 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt với 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản chưa chấp hành tại bản án số 136 ngày 28/10/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang buộc L T A phải chấp hành hai bản án là 02 năm 02 tháng tù (Bản án tuyên tái phạm, chấp hành xong ngày 08/11/2021) * Tiền sự: Không * Nhân thân:

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 50 ngày 20/12/2016 của Công an phường Hưng Thành, thành phố Tuyên Quang đối với L T A về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy hình thức phạt tiền 500.000 đồng.

- Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường số 149 ngày 09/3/2017 của Ủy ban nhân dân phường Tân Quang, thành phố Tuyên Quang đối với L T A, thời gian 03 tháng (chấp hành xong ngày 09/6/2017) - Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 455 ngày 18/6/2019 của Công an phường Phan Thiết, thành phố Tuyên Quang đối với L T A về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy hình thức phạt tiền 750.000 đồng (Biên bản đôn đốc ngày 20/5/2020) - Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 213 ngày 24/6/2019 của Công an phường Hưng Thành, thành phố Tuyên Quang đối với L T A về hành vi Tàng trữ ma túy trái phép, hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng (biên bản đôn đốc ngày 15/10/2019) - Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại phường số 111 ngày 01/7/2019 của Ủy ban nhân dân phường Tân Quang, thành phố Tuyên Quang đối với L T A, thời gian 03 tháng (chấp hành xong ngày 01/10/2019).

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/5/2022 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 03/5/2022, L T A, trú tại tổ dân phố 05, phường Tân Quang, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang một mình đi bộ từ nhà đến khu vực nhà nghỉ Phương Nga thuộc tổ dân phố 09, phường Hưng Thành, thành phố Tuyên Quang mục đích tìm mua Heroine để sử dụng. Đến nơi, T A gặp một người đàn ông tên Tuấn (T A không biết rõ họ, tên đệm, địa chỉ cụ thể) và hỏi mua được 01 gói Heroine bọc ngoài bằng ni lông màu trắng, bên trong chứa chất bột vón cục màu trắng ngà với giá 200.000 đồng. Mua xong, T A cho gói ma túy vào miệng ngậm rồi đi bộ tìm khu vực vắng người để sử dụng Heroine. Khi đi đến khu vực tổ dân phố 09, phường Hưng Thành, thành phố Tuyên Quang thì bị Tổ công tác Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuyên Quang kiểm tra phát hiện. Do hoảng sợ, T A đã nuốt gói ma túy vào bụng, tổ công tác đã lập Biên bản đưa T A đến Bệnh viện Đa khoa Phương Bắc (tổ dân phố 04, phường Tân Hà, thành phố Tuyên Quang) để lấy gói ma túy. Sau khi nội soi lấy được gói ma túy do T A đã nuốt, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành thu giữ, niêm phong và lập biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với T A vào hồi 11 giờ 50 phút cùng ngày.

Tại Kết luận giám định số 514 ngày 06/5/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: Mẫu vật gửi giám định (chất bột vón cục màu trắng thu giữ của L T A) là chất ma túy, loại Heroine (Hêrôin); khối lượng là 0,112 gam (không phẩy một một hai gam).

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với T A, kết quả (+) dương tính có chất ma túy trong cơ thể, T A khai nhận ngày 02/5/2022 đã mua Heroine của Tuấn và sử dụng hết bằng hình thức tiêm chích vào cơ thể.

Vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 gói Heroine có khối lượng 0,112g.

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 90/CT-VKSTP ngày 03 tháng 8 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố bị cáo L T A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo L T A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo L T A từ 05 năm 03 tháng tù đến 05 năm 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 03/5/2022. Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo; xử lý vật chứng (tịch thu, tiêu hủy số Heroine còn lại sau giám định. Tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo L T A phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục nhận tội, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo L T A tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản xác minh; biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp; vật chứng thu giữ; kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 11 giờ 50 phút ngày 03/5/2022 tại tổ dân phố 04, phường Tân Hà, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang, L T A, trú tại tổ dân phố 05, phường Tân Quang, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,112g (không phẩy một một hai gam) Heroine, mục đích để sử dụng.

[3] Về tội danh: Bản thân bị cáo L T A trước khi bị xét xử trong vụ án này đã 03 lần bị Tòa án đưa ra xét xử (năm 2017, năm 2019 và năm 2020). Tại Bản án số 07 ngày 18/02/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang đã xử phạt bị cáo L T A 01 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổng hợp với hình phạt 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản bị cáo chưa chấp hành tại Bản án số 136 ngày 28/10/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang; buộc bị cáo L T A phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 02 năm 02 tháng tù đã xác định bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm; ngày 08/11/2021 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù của bản án này, đến ngày 03/5/2022 bị cáo tiếp tục phạm tội. Như vậy, bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.

Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố bị cáo L T A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định, không oan.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 03 tiền án nhưng đã áp dụng là tình tiết định khung nên không áp dụng là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; mẹ đẻ của bị cáo (bà Tạ Kim C) được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng Nhất nên Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự trong khi lượng hình.

[6] Về hình phạt: Bị cáo L T A là người có năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Hành vi của bị cáo đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố Tuyên Quang. Do vậy, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng ma tuý mà bị cáo tàng trữ cũng như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang.

[7] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của L T A, Công an thành phố Tuyên Quang đã xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định số 000206 ngày 24/5/2022, hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với người đàn ông tên Tuấn theo T A khai nhận là người bán Heroine cho T A, nhưng không xác định được tên đệm, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xem xét, xử lý.

[8] Về vật chứng: Đối với khối lượng ma túy còn lại (sau khi giám định) đã thu giữ của bị cáo được niêm phong theo quy định là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố: Bị cáo L T A phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

- Xử phạt: Bị cáo L T A 05 (năm) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 03/5/2022.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký của L T A, chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có 0,062 gam Heroine (số còn lại sau khi lấy mẫu giám định).

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 08/8/2022).

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo L T A phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo L T A được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 84/2022/HS-ST

Số hiệu:84/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về