TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 83/2024/HS-ST NGÀY 10/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 10 tháng 04 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm Tòa án nhân dân thị xã Q, tỉnh B và điểm cầu thành phần Trại tạm giam Công an tỉnh B, Tòa án nhân dân thị xã Q, tỉnh B xét xử sơ thẩm trực T công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 84/2024/HSST ngày 15 tháng 03 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2024/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 03 năm 2024 đối với bị cáo:
Bị cáo: Nguyễn Đức T, sinh năm 1975. HKTT: Khu phố Phù Lang, phường Phù Lương, thị xã Q, tỉnh B.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 03/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đức T1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị L; Gia đình bị cáo có 09 anh chị em, bị cáo là con tư; Vợ: Đào Thị T2, sinh năm 1981. Con: Có 03 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2015. Tiền sự: Không.
Tiền án: Tại Bản án số 79/2021/HS-ST ngày 30/6/2021 của Toà án nhân dân huyện Q, tỉnh B xử phạt 14 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo Điều 249 Bộ luật hình sự. Chấp hành xong phần án phí ngày 19/8/2021. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/02/2022.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/12/2023 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B. Có mặt tại điểm cầu thành phần Trại tạm giam - Công an tỉnh B.
* Người tham gia tố tụng khác:
1. Ông Nguyễn Kim Sơn – Cán bộ phụ trách tin học Tòa án nhân dân thị xã Q, tỉnh B. Có mặt.
2. Cán bộ phụ trách tin học Trại tạm giam – Công an tỉnh B. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Đức T, HKTT: Khu phố Phù Lang, phường Phù Lương, thị xã Q, tỉnh B là đối tượng sử dụng ma tuý.
Khoảng 11 giờ 10 phút ngày 19/12/2023, T điều khiển xe mô tô BKS 99L1-xxxx đi từ xã Chi Lăng, thị xã Q lên khu 1, phường Phố Mới, thị xã Q để tìm mua ma tuý. Khi đến khu vực ngã tư Phố Mới, T rẽ trái vào đường Quốc lộ 18 theo hướng đi thành phố B, tỉnh B. T điều khiển xe đi được khoảng 100m thì tiếp tục rẽ phải vào một con ngõ rồi dừng lại. T dựng xe ở đầu ngõ để đi bộ vào trong. Tại đây, T gặp một người đàn ông không quen biết có biểu hiện bán ma tuý nên tiến lại hỏi mua 200.000 đồng ma tuý Heroine. Người đàn ông đồng ý và đưa cho T 01 gói giấy bạc màu trắng. T biết đó là ma tuý cần mua nên cầm ở lòng bàn tay trái rồi đi ra lấy xe để về nhà. Khi đang ra lấy xe thì bất ngờ bị tổ công tác Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh B đi đến thông báo quá trình T điều khiển xe mô tô trước khi T vào mua ma tuý không đội mũ bảo hiểm, yêu cầu T xuất trình giấy phép lái xe, giấy đăng ký xe theo quy định. Do đang tàng trữ trái phép chất ma tuý trên người, lo sợ bị lực lượng Công an phát hiện nên T đã thả gói ma tuý trong lòng bàn tay trái xuống đất ngay vị trí T đứng. Biết không thể trốn chạy được nên T đã cúi người tự nguyện dùng tay trái nhặt 01 (một) gói giấy bạc màu trắng chứa ma tuý vừa vứt dưới đất lên giao nộp cho lực lượng Công an. Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của T nên đã lập biên bản phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu ở trên.
Vật chứng thu giữ:
+ Thu giữ tại lòng bàn tay trái của T 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng.
+ Tạm giữ của T 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA DREAM màu nâu, BKS 99L1- xxxx, số máy VTT03JL1P50FMG001593, số khung RRKDCG0TT7XH01593.
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA DREAM màu nâu, BKS 99L1-xxxx T dùng làm phương tiện đi mua ma tuý. Quá trình điều tra xác định là tài sản của ông Nguyễn Thiên Nỏ, sinh năm 1961, HKTT: khu Phù Lang, phường Phù Lương, thị xã Q, tỉnh B (chú họ của T). Cơ quan Cảnh sát điều tra đã bàn giao chiếc xe trên cho Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh B để xử lý theo quy định.
Tại bản Kết luận giám định số 112/KL-KTHS ngày 22/12/2023, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01 (một) gói giấy bạc màu trắng gửi giám định có khối lượng là 0,0553; Là ma túy; Loại ma túy: Heroine (Heroin).” Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Q, tỉnh B, bị cáo Nguyễn Đức T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên .
Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 37/CT-VKSQV ngày 15/03/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q đã truy tố Nguyễn Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Nguyễn Đức T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt: Nguyễn Đức T từ 13 tháng đến 18 tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2023. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng của vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ số mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B.
Bị cáo Nguyễn Đức T nhận tội, không có ý kiến gì và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thị xã Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Đức T tại cơ quan điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với thời gian, địa điểm, tang vật thu được tại hiện trường, lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án xác định được: Hồi 11 giờ 10 phút ngày 19/12/2023, tại khu vực khu 1, phường Phố Mới, thị xã Q, tỉnh B, tổ công tác Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh B bắt quả tang Nguyễn Đức T có hành vi tàng trữ trái phép 0,0553 gam ma túy Heroin mục đích để sử dụng cho bản thân. Như vậy, thấy đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của Nguyễn Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm được quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội. Tệ nạn ma tuý làm ảnh hưởng đến các chính sách phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước; việc đấu tranh với các tội phạm về ma tuý hiện nay là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để bài trừ tệ nạn này. Bất chấp sự ngăn cấm của pháp luật, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay làm gia tăng tệ nạn ma tuý trên địa bàn thị xã Q. Chính vì vậy phải đưa ra xét xử bị cáo kịp thời và có hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo có 01 tiền án nhưng do đã áp dụng là tình tiết định tội nên không coi là tình tiết tăng nặng. Tại cơ quan điều tra và phiên tòa hôm nay bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Về hình phạt bổ sung: xét thấy bị cáo có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Đối với người đàn ông đã bán ma tuý cho T, T không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể. Cơ quan CSĐT Công an thị xã Q tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
Đối với ông Nguyễn Thiên Nỏ cho T mượn xe mô tô BKS 99L1-xxxx. Quá trình điều tra xác định ông Nỏ không biết việc T mượn xe để đi mua ma tuý nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý mà chỉ nhắc nhở là phù hợp.
Đối với hành vi điều khiển xe mô tô không đội mũ bảo hiểm, không có Giấy đăng ký xe, Giấy phép lái xe theo quy định của T, Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh B đã ra quyết định xử lý vi phạm hành chính đối với T bằng hình thức phạt tiền.
Về xử lý vật chứng của vụ án: mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B là vật cấm nên cần tịch thu tiêu huỷ.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 136, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:
Xử phạt: Nguyễn Đức T 16 (Mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2023. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.
Về xử lý vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ số mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B. (Theo biên bản giao vật chứng ngày 14/03/2024 giữa Công an thị xã Q với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Q).
Về án phí: bị cáo Nguyễn Đức T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 83/2024/HS-ST
Số hiệu: | 83/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/04/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về