Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 82/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐƯỜNG, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN SỐ 82/2023/HS-ST NGÀY 30/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 30 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 83/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 9 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2023/QĐXXST-HS ngày 18/9/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Triệu Văn T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam;

Sinh ngày 18/6/1994;Tại: huyện N, tỉnh Nam Định;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm D (nay là xóm A), xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân Tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Triệu Văn S (đã chết); Con bà: Nguyễn Thị N, sinh năm 1966; Gia đình bị cáo có 02 anh, em; bị cáo là con thứ hai; bị cáo chưa có vợ con; Tiền án: Tại Bản án số 116/2020/HS-ST, ngày 15/5/2020 Triệu Văn T bị Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt 16 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đến ngày 17/11/2021 Triệu Văn T chấp hành xong hình phạt trở về địa phương. Đến ngày 26/6/2023 bị cáo Triệu Văn T chưa được xóa án tích theo quy định.; tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/6/2023 đến ngày 02/7/2023 bị áp dụng biện pháp tạm giam, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T cho đến nay “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Triệu Văn T, sinh ngày 18/6/1994, trú tại Xóm D (nay là xóm A), xã N, huyện N, tỉnh Nam Định, T khai bản thân là người nghiện chất ma túy. Khoảng 17 giờ ngày 26/6/2023, T đang ở phòng trọ thuộc bản Mới, xã S, thành phố L, tỉnh Lai Châu thì có một nam thanh niên tên V (không rõ lai lịch) đến phòng trọ và rủ T đi vào xã T, huyện T tìm mua Heroine về cùng nhau sử dụng, T đồng ý. V điều khiển xe mô tô chở T đến ngã ba thuộc bản L, xã T, huyện T, tỉnh Lai Châu thì T xuống xe đứng chờ, V đi tìm mua Heroine ở đâu T không biết. Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 26/6/2023, V quay lại nói với T đã mua được H và đưa cho T một gói ma túy được gói ngoài bằng giấy bạc. T cầm gói Heroine cất giấu trong lòng bàn tay trái cùng V đang đi tìm chỗ sử dụng Heroine. Hồi 20 giờ 05 phút ngày 26/6/2023, tại bản Lở Thàng 2, xã T, huyện T, khi Triệu Văn T đang đi tìm chỗ sử dụng ma túy thì bị Công an Thèn Sin, huyện T, tinh Lai Châu phát hiện, bắt quả tang về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Quá trình bắt giữ, T đã thả 01 gói Heroine xuống đường để tiêu hủy chứng cứ. Lợi dụng sơ hở của cơ quan chức năng người đàn ông tên V đi cùng T đã điều khiển xe mô tô bỏ chạy thoát. Công an xã T, huyện T đã thông báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu giữ và niêm phong vật chứng theo quy định.

Tại bản Kết luận giám định số 54 ngày 27/6/2023 của người giám định theo vụ việc kết luận: Tổng số chất bột màu trắng thu giữ của Triệu Văn T có khối lượng là: 0,22 gam.

Tại bản Kết luận giám định số 840 ngày 28/6/2023 của Phòng K Công an tỉnh L kết luận: Mẫu chất bột, màu trắng gửi giám định là ma túy, loại: Heroine.

Trong quá trình điều tra, truy tố, bị cáo Triệu Văn T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Năm 2020, bị cáo bị kết án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: đối với 0,22 gam Heroine thu giữ của Triệu Văn T, Cơ quan điều tra đã lấy toàn bộ làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy (không hoàn lại mẫu vật).

Vật chứng còn lại của vụ án gồm: phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, hai mảnh nilon màu trắng cùng mảnh giấy bạc gói vật chứng ban đầu; 01 lọ nước cất; 01 xilanh bơm kim tiêm, hiện đang được lưu giữ tại Kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Đường.

Về phần dân sự: Không Bản cáo trạng số 75/CT-VKSTĐ, ngày 18/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đường truy tố bị cáo Triệu Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận và bản cáo trạng nêu trên.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát huyện T đánh giá như sau: Quá trình điều tra, truy tố, đối với bị cáo Triệu Văn T giữ nguyên quyết định truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Triệu Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Triệu Văn T từ 20 tháng tù đến 26 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 26/6/2023. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Đề nghị tịch thu tiêu hủy: Một phong bì công văn của Công an huyện T niêm phong lại bằng cách dán kín các mép dán phong bì bằng tờ giấy niêm phong màu trắng từ mặt sau ra mặt trước. Trên các mép dán của mảnh giấy niêm phong có các chữ ký và ghi rõ họ tên của: Lò Văn Q, Phan Văn H1, Đinh Thị H2, Chảo Văn C, Sần Văn T1 và Triệu Văn T. Mặt trước phong bì ghi: “Phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, hai mảnh nilon màu trắng cùng mảnh giấy bạc gói vật chứng ban đầu thu giữ của Triệu Văn T, sinh năm 1994, trú tại Xóm D, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định”. Trên mép dán của tờ giấy niêm phong ở bốn góc mặt trước phong bì đóng bốn hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện T; 01 (một) lọ nước cất loại 02ml chưa qua sử dụng; 01 (một) xilanh (bơm kim tiêm) chưa qua sử dụng.

Bị cáo thuộc trường hợp phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Triệu Văn T không có tranh luận gì với quan điểm luận tội của Kiểm sát viên.

Tại lời nói sau cùng bị cáo không có ý kiến đề nghị gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo; tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tại phiên tòa hôm nay cũng như quá trình điều tra bị cáo Triệu Văn T đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo đều phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ căn cứ khẳng định: Hồi 20 giờ 05 phút ngày 26 tháng 6 năm 2023, tại bản Lở Thàng 2, xã T, huyện T, tỉnh Lai Châu Triệu Văn T đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 02 gói Heroine có tổng khối lượng 0,22 gam, mục đích để sử dụng thì bị Công an xã T, huyện T phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn. Ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì nghiện chất ma túy nên đã thúc đẩy bị cáo cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình gây ra. Căn cứ đề nghị của Viện kiểm sát huyện Tam Đường đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

Về các tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhận thức pháp luật còn hạn chế. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có một tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[3] Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Đối với: Một phong bì công văn của Công an huyện T niêm phong lại bằng cách dán kín các mép dán phong bì bằng tờ giấy niêm phong màu trắng từ mặt sau ra mặt trước. Trên các mép dán của mảnh giấy niêm phong có các chừ ký và ghi rõ họ tên của: Lò Văn Q, Phan Văn H1, Đinh Thị H2, Chảo Văn C, Sần Săn T1 và Triệu Văn T. Mặt trước phong bì ghi: “Phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, hai mảnh nilon màu trắng cùng mảnh giấy bạc gói vật chứng ban đầu thu giữ của Triệu Văn T, sinh năm 1994, trú tại Xóm D, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định”. Trên mép dán của tờ giấy niêm phong ở bốn góc mặt trước phong bì đóng bốn hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện T; 01 (một) lọ nước cất loại 02ml chưa qua sử dụng; 01 (một) xilanh (bơm kim tiêm) chưa qua sử dụng, đây là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội, vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Những vấn đề liên quan:

Đối với người đàn ông tên V là người đi cùng Triệu Văn T. Do T không biết biển số xe mô tô và nhân thân, lai lịch của V nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để điều tra, xác minh làm rõ. về nguồn gốc ma túy, T khai do V trực tiếp đi mua Heroine và không biết mua của ai, do đó Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[6] Án phí:

Áp dụng điều 135; 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Triệu Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Triệu Văn T 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 26/6/2023. Không áp dụng các hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì công văn của Công an huyện T niêm phong lại bằng cách dán kín các mép dán phong bì bằng tờ giấy niêm phong màu trắng từ mặt sau ra mặt trước. Trên các mép dán của mảnh giấy niêm phong có các chữ ký và ghi rõ họ tên của: Lò Văn Q, Phan Văn H1, Đinh Thị H2, Chảo Văn C, Sần Văn T1 và Triệu Văn T. Mặt trước phong bì ghi: “Phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, hai mảnh nilon màu trắng cùng mảnh giấy bạc gói vật chứng ban đầu thu giữ của Triệu Văn T, sinh năm 1994, trú tại Xóm D, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định”. Trên mép dán của tờ giấy niêm phong ở bốn góc mặt trước phong bì đóng bốn hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện T; 01 (một) lọ nước cất loại 02ml chưa qua sử dụng; 01 (một) xilanh (bơm kim tiêm) chưa qua sử dụng.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 14 giờ 30 phút ngày 18/9/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T với Chi Cục thi hành án dân sự huyện Tam Đường).

4. Về án phí: Bị cáo Triệu Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự bị cáo được quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân cấp trên trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

62
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 82/2023/HS-ST

Số hiệu:82/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đường - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về