Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 82/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 82/2023/HS-ST NGÀY 08/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 08 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 80/2023/TLST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2023/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Trần Đình Ph, sinh ngày 18-02-1987; tại: xã Hồng An, huyện Hưng Hà, tỉnh T Nơi cư trú: thôn V, xã H, huyện Hưng Hà, tỉnh T; trình độ văn hóa:

9/12; nghề nghiệp: lao động tự do; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đình Đ, sinh năm 1963 và bà Đỗ Thị B, sinh năm 1963; tiền án: Bản án số 101/2020/HS-ST ngày 30-9-2020 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh T xử phạt Trần Đình Ph 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã nộp án phí xong ngày 30-3-2021, chưa thực hiện nghĩa vụ trả lại tiền cho người liên quan, chấp hành xong hình phạt tù ngày 16-4-2021; Bản án số 13/2021/HS-ST ngày 04-3-2021 của Tòa án nhân dân huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên xử phạt Trần Đình Ph 01 năm 03 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt với bản án 101/2020/HS-ST ngày 30-9-2020 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà là 02 năm tù (không áp dụng tình tiết tăng nặng tái phạm), chấp hành xong hình phạt tù ngày 16-7-2022, đã nộp án phí xong ngày 01-7-2021, chưa thực hiện nghĩa vụ trả lại tiền cho người liên quan; tiền sự: không; nhân thân: Bản án số 32/2007/HSST ngày 14-9-2007 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh T xử phạt Trần Đình Ph 09 tháng tù, cho hưởng án treo thời gian thử thách 15 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” (nộp án phí xong tháng 7-2008); Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 10/QĐ-TA ngày 26- 9-2016 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà đã buộc Trần Đình Ph đi cai nghiện bắt buộc, thời hạn 24 tháng (chấp hành xong ngày 30-9-2018); bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13-6-2023, đến ngày 19-6-2023 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh T; bị cáo được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến:

1. Anh Trần Thanh Ng, sinh năm 1977; vắng mặt. Nơi cư trú: thôn H, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh T.

2. Anh Trần Xuân Đ, sinh năm 1985; vắng mặt.

Nơi cư trú: thôn Th, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh T

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ ngày 13-6-2023, tại đoạn đường quốc lộ 39 thuộc địa phận thôn Bùi Xá, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh T; Công an huyện Hưng Hà, tỉnh T phát hiện, bắt quả tang bị cáo Trần Đình Ph có hành vi cất giấu tại túi quần bên trái phía trước đang mặc 02 gói ma túy, loại Hêrôin, có khối lượng 0,1302 gam. Khi tổ công tác Công an huyện Hưng Hà yêu cầu kiểm tra, bị cáo Phong tự nguyện giao nộp 02 gói giấy tráng kim màu trắng, mở kiểm tra bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, bị cáo Phong khai nhận đó là ma túy, loại Heroine, mục đích để sử dụng. Công an huyện Hưng Hà, tỉnh T tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong gói ma túy trên trước sự chứng kiến của anh Trần Thanh Ng và anh Trần Xuân Đ.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị cáo Trần Đình Ph, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh T không thu giữ đồ vật, tài sản gì.

Bản kết luận giám định số 928/KL-KTHS ngày 17-6-2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Heroin (Heroine), có khối lượng 0,1302 gam. (không phẩy một nghìn ba trăm linh hai gam). Heroine STT: 09 Danh mục IA phụ lục kèm theo Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 55/8/2022 của Chính phủ.

Bản cáo trạng số 88/CT-VKSHH ngày 25-8-2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh T truy tố bị cáo Trần Đình Ph ra trước Toà án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh T để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Trần Đình Ph khai nhận: do mắc nghiện ma túy từ năm 2016 nên khoảng 10 giờ 00 phút ngày 13-6-2023, bị cáo đi bộ một mình từ nhà đến ngã tư xã H giáp đường Thái Hà, sau đó đi nhờ xe của một người thanh niên nam khoảng 30 tuổi (bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ) đến khu vực cầu Triều Dương, thuộc xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh T mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đến gần cầu Triều Dương, bị cáo xuống xe đi bộ. Tại cầu Triều Dương, bị cáo gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi, không quen biết. Qua nói chuyện, bị cáo biết anh ta bán ma túy nên bị cáo hỏi mua và đưa cho người đàn ông 200.000 đồng, người đàn ông cầm tiền, đưa cho bị cáo 02 gói giấy tráng kim màu trắng, bị cáo biết bên trong 02 gói giấy đó có ma túy (Heroine), bị cáo cầm 02 gói ma túy cho vào túi quần bên trái phía trước đang mặc, sau đó một mình đi bộ tìm nơi sử dụng ma túy. Khi đi đến đoạn đường quốc lộ 39 thuộc địa phận thôn Bùi Xá, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh T thì bị Công an huyện Hưng Hà, tỉnh T yêu cầu kiểm tra, bị cáo đã tự nguyện giao nộp 02 gói giấy tráng kim màu trắng cho lực lượng Công an. Công an huyện Hưng Hà đã tiến hành mở kiểm tra bên trong 02 gói giấy tráng kim màu trắng đều có chứa chất bột màu trắng dạng cục. Sau đó, Công an huyện Hưng Hà đã tiến hành niêm phong gói giấy tráng kim chứa chất bột màu trắng dạng cục trên trước sự chứng kiến của bị cáo và một số người dân.

Kiểm sát viên - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà giữ quyền công tố, sau khi phân tích nội dung vụ án, hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Trần Đình Ph như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản Cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử (Viết tắt là HĐXX): tuyên bố bị cáo Trần Đình Ph phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 50 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Đình Ph từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 13-6-2023; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Trần Đình Ph; áp dụng áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu để tiêu huỷ toàn bộ số ma túy thu của bị cáo Trần Đình Ph là vật chứng của vụ án, sau khi giám định được niêm phong trong 01 phong bì số 928/KL-KTHS của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh T; bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Trần Đình Ph không tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo rất ân hận về hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những người chứng kiến là anh Trần Thanh Ng và anh Trần Xuân Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt. Xét thấy tại giai đoạn điều tra anh Ngh và anh Đ đã có lời khai đầy đủ lưu trong hồ sơ vụ án nên sự vắng mặt của những người làm chứng kiến không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 293 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

[3] Về chứng cứ xác định có tội: lời khai của bị cáo Trần Đình Ph tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh T lập 10 giờ 40 phút ngày 13-6-2023 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh T; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh T lập hồi 12 giờ ngày 13-6-2023 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh T; Bản kết luận giám định số 928/KL-KTHS ngày 17-6-2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh T; Biên bản ghi lời khai của những người chứng kiến là anh Trần Thanh Ng và anh Trần Xuân Đ. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 10 giờ ngày 13-6-2023, tại đoạn đường quốc lộ 39 thuộc địa phận thôn Bùi Xá, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh T, bị cáo Trần Đình Ph đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1302 gam ma túy, loại Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân, bị Công an huyện Hưng Hà phát hiện, bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo Trần Đình Ph đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...................................

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Do đó, khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh T truy tố bị cáo Trần Đình Ph về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX thấy: hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mà bị cáo Trần Đình Ph thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, hủy hoại trực tiếp sức khỏe của chính bản thân bị cáo và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác; trước khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã bị kết án về tội “trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích nên bị cáo bị áp dụng 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; trong giai đoạn điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức rất rõ về tác hại của ma túy, về việc nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng...trái phép chất ma túy nhưng để thỏa mãn nhu cầu bản thân nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc loại tội nghiêm trọng. Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị kết án và phải chấp hành hình phạt tù, đã bị cai nghiệm bắt buộc nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học, không chịu tu dưỡng, cải tạo để trở thành công dân tốt mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần xử mức án tương xứng với hành vi phạm tội và tiếp tục cách ly bị cáo khỏi cuộc sống xã hội trong một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời góp phần phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: bị cáo tàng trữ ma tuý để sử dụng, không có mục đích vụ lợi, bản thân bị cáo là người nghiện ma tuý, không có thu nhập ổn định, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng của vụ án: toàn bộ số ma túy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà thu giữ của bị cáo Trần Đình Ph vào ngày 13-6-2023. Sau khi giám định, cơ quan giám định đã hoàn trả mẫu vật giám định trong phong bì niêm phong số 928/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh T cần tịch thu để tiêu huỷ là phù hợp quy định tại Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phong khai: số ma tuý bị Công an huyện Hưng Hà thu giữ của bị cáo vào ngày 13-6-2023 là do bị cáo mua của một người đàn ông không quen biết với giá 200.000 đồng để sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không xác định được con người cụ thể nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[9] Về án phí: bị cáo Trần Đình Ph phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: bị cáo Trần Đình Ph phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 50 và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Đình Ph 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 13-6-2023.

3. Về xử lý vật chứng: áp dụng áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu tiêu huỷ 0,0868gam (Không phẩy không nghìn tám trăm sáu mươi tám gam) mẫu vật gửi giám định và toàn bộ bao gói thu giữ của Trần Đình Ph trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 928/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh T;

Vật chứng của vụ án hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh T quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 25-8-2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh T.

4. Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Trần Đình Ph phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo Trần Đình Ph có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 82/2023/HS-ST

Số hiệu:82/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về