Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 82/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ RIỀNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 82/2022/HS-ST NGÀY 21/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 01 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 93/2021/HSST ngày 18 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2021 và Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 55/2021/TB-TA ngày 19/11/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Ngô Xuân B, sinh năm 1990 tại Bình Phước ; HKTT: thôn A, xã Bg, huyện C, tỉnh Bình Phước ; Nghề nghiệp: Làm nông; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; Trình độ văn hóa: 10/12; Con ông Ngô Văn Hồi, sinh năm 1956 và bà Nguyễn Thị An, sinh năm 1957; Tiền án: Bị Tòa án nhân dân huyện Tuy Đức tỉnh Đăk Nông xử phạt 09 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tại bản án số 33/2014/HSST ngày 18/7/2014 (Bị cáo đã chấp hành xong bản án nhưng chưa được xóa án tích) Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/6/2021 cho đến nay, “có mặt tại phiên tòa”.

Nhân thân:

- Bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án hình sự số 80/2007/HSST ngày 18/7/2007.

- Bị Tòa án nhân dân Thành phố A, tỉnh Khánh Hòa xử phạt 13 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án hình sự số 273/2007/HSST ngày 27/11/2007.

- Bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Bình Phước xử phạt 12 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tại bản án hình sự số 52/2008/HSST ngày 10-11/11/2008 - Bị Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bình Phước xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại bản án hình sự số 17/2017/HSST ngày 28/3/2017.

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Bà Trần Thị Quý H, sinh năm 1993

Trú tại: Thôn D, xã B, huyện C, tỉnh Bình Phước

Bà Nguyễn Thị Kim Y, sinh năm 1979

Trú tại: Thôn S, xã B, huyện C, tỉnh Bình Phước

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên ngày 28/6/2021, Ngô Xuân B đón xe ôm đến vòng xoay đường vào hồ Suối Cam thuộc thành phố A gặp một người đàn ông tên D (không rõ lai lịch) để mua 500.000 đồng ma túy. Sau khi mua xong, B đón xe ôm về lại tiệm Massage Hải Y ở thôn Phú Cường, xã Phú Riềng, huyện Phú Riềng do B làm quản lý, tại đây B đã lấy một ít ma túy ra để sử dụng, số còn lại B cất giấu trong túi quần.

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 29/6/2021, B điều khiển xe môtô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu đen, biển số 93P2-X đi mua card điện thoại tại khu vực thôn Phú Cường, xã Phú Riềng, huyện Phú Riềng sau đó lấy gói ma túy trong túi quần ra cầm trong tay rồi điều khiển xe đến nhà Trần Thị Quý H với mục đích để sử dụng ma túy. Khi đi đến đoạn đường trước cổng nhà văn hóa thôn Phú Thành thì B bị lực lượng Công an huyện C kết hợp với Công an xã B tiến hành dừng xe kiểm tra, lúc này B vứt xuống đất 01 (một) gói nylon hàn kín có kích thước khoảng (2,5x1,5)cm, bên trong có chứa các tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp dạng đá. Sau đó lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với B.

Tang vật thu giữ gồm:

- 01 (một) gói nylon được hàn kín, kích thước khoảng (1.5x2.5)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng;

- 01 (một) điện thoại di động (ĐTDĐ) hiệu Iphone 7 plus, màu trắng đỏ; 01 (một) ĐTDĐ hiệu Nokia màu đen;

- 01 (một) xe môtô hiệu Yamaha, số loại Exciter, màu sơn: đen, biển số 93P2-X, số máy 1103488, số khung 332454;

*Tại Bản kết luận giám định số 3432/C09B ngày 01/7/2021 của Phân viện KHHS tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:

Tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,5135g.

*Tại Bản kết luận giám định số 3433/C09B ngày 01/7/2021 của Phân viện KHHS tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:

Trên gói nylon hàn kín (kí hiệu M1) gửi giám định có dính tế bào người. Kiểu gen của mẫu tế bào này trùng với kiểu gen của Ngô Xuân B.

Tại Bản cáo trạng số 68/CTr-VKS ngày 18 tháng 10 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Ngô Xuân B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Ngô Xuân B mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng trong vụ án.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như trên và bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng của vụ án, kết luận giám định chất ma túy và các tài liệu, chứng cứ khác được thẩm tra tại phiên tòa. Trên cơ sở đó đã xác định được: Do là người nghiện ma túy nên vào ngày 28/6/2021, bị cáo Ngô Xuân B đã có hành vi mua 500.000đ (Năm trăm ngàn đồng) ma túy của một người đàn ông tên Dương (không rõ lai lịch) ở thành phố Đồng Xoài về để sử dụng. Ngày 29/6/2021, khi bị cáo Ngô Xuân B đang điều khiển xe môtô hiệu Yamaha Exciter, màu đen, biển số 93P2-X đến nhà bạn là bà Trần Thị Quý H, trú tại: thôn D, xã B, huyện C để sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ 01 gói nilon hàng kín bên trong có chứa tinh thể màu trắng. Kết luận giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,5135 gam.

Hành vi của bị cáo thực hiện đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về cất giữ chất ma túy. Bị cáo là người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có đủ nhận thức về tác hại của hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy sẽ gây ảnh hưởng xấu đối với sức khỏe con người và là nguyên nhân trực tiếp gây ra nhiều tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, bị xử lý nghiêm trước pháp luật nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi cất giấu ma túy để sử dụng. Vì vậy, cân xư phat bi cao môt mưc hinh phat tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, cải tạo bi cao và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu. Bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện B Long, tỉnh Bình Phước xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án hình sự số 80/2007/HSST ngày 18/7/2007. Bị Tòa án nhân dân Thành phố A, tỉnh Khánh Hòa xử phạt 13 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án hình sự số 273/2007/HSST ngày 27/11/2007. Bị Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bình Phước xử phạt 12 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tại bản án hình sự số 52/2008/HSST ngày 10-11/11/2008 và bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Bình Phước xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại bản án hình sự số 17/2017/HSST ngày 28/3/2017, đối với các bản án trên bị cáo đã được xóa án tích. Ngoài ra, bị cáo còn bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đăk Nông xử phạt 09 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tại bản án hình sự sơ thẩm số 33/2014/HSST ngày 18/7/2014, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt nhưng chưa được xóa án tích, bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới nên thuộc trường hợp “Tái phạm”. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên được HĐXX chấp nhận.

Đối với đối tượng tên D là người đã bán ma túy cho B vào ngày 28/6/2021, qua điều tra chưa xác minh được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Công an huyện Phú Riềng đã có Công văn trao đổi với Cơ quan Công an thành phố Đồng Xoài để áp dụng các biện pháp nghiệp vụ nên HĐXX không xem xét.

Đối với Trần Thị Quý H, qua điều tra Hương khai nhận đã từng mua ma túy của B 02 lần nhưng qua làm việc B không thừa nhận việc bán ma túy cho H, hiện H không có mặt tại địa phương nên không làm việc được, quan Công an huyện Phú Riềng đã đề nghị tách ra, xác minh, làm rõ xử lý sau, nên HĐXX không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) gói nylon được hàn kín, kích thước khoảng (1.5x2.5)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng, qua điều tra xác định đây là tang vật của vụ án đã sử dụng hết cho công tác giám định nên HĐXX không xem xét.

Đối với 01 (một) điện thoại di động (ĐTDĐ) hiệu Iphone 7 plus, màu trắng đỏ; 01 (một) ĐTDĐ hiệu Nokia màu đen là tài sản riêng của B, do làm ăn mà có, không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho B.

Đối với 01 (một) xe môtô hiệu Yamaha, số loại Exciter, màu sơn: đen, biển số 93P2-X, số máy 1103488, số khung 332454, qua điều tra xác định xe môtô trên thuộc sở hữu của Lê Minh Trực, sinh năm 1978, HKTT: khu phố Tân An, thị trấn T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước, qua làm việc anh Trực khai đã bán cho Nguyễn Thị Kim Y, tạm trú: thôn D, xã B, huyện C, tỉnh Bình Phước , qua làm việc Y khai nhận xe mô tô trên mua lại của Trực. Ngày 29/6/2021 B lấy xe đi sử dụng vào việc phạm tội thì Y không biết nên cần trả lại cho Y.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh, áp dụng pháp luật và mức hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Ngô Xuân B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Ngô Xuân B 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2021.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tuyên trả:

+ Đối với 01 (một) điện thoại di động (ĐTDĐ) hiệu Iphone 7 plus, màu trắng đỏ; 01 (một) ĐTDĐ hiệu Nokia màu đen cho Ngô Xuân B.

+ 01 (một) xe môtô hiệu Yamaha, số loại Exciter, màu sơn: đen, biển số 93P2-X cho Nguyễn Thị Kim Y.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng Công an huyện Phú Riềng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Riềng)

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 32/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí: Buộc bị cáo Ngô Xuân B phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 82/2022/HS-ST

Số hiệu:82/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Riềng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về