TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 82/2022/HS-ST NGÀY 11/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 11 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Tuyên Quang mở phiên toà sơ thẩm xét xử theo hình thức trực tuyến, công khai vụ án hình sự thụ lý số 81/2022/TLST-HS, ngày 17 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/2022/QĐXXST-HS, ngày 28 tháng 10 năm 2022, đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Hà Việt A; sinh ngày 04/9/2001, tại huyện M, tỉnh Sơn La; Nơi ĐKHKTT: Tiểu khu 2, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; Chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố Vĩnh Quý, thị trấn V, huyện C, tỉnh Tuyên Quang; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; họ tên cha: Không xác định; họ tên mẹ: Hà Thị X sinh năm 1974; anh chị em ruột: Có 03 người, bị cáo là thứ hai; chồng: Phạm Văn T sinh năm 1989; con: Có 01 con, sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo đang được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại thị trấn V, huyện C, tỉnh Tuyên Quang.
(Có mặt tại phiên tòa).
2. Họ và tên: Lương Thị Lan C; sinh ngày 14/01/2000, tại huyện C, tỉnh Tuyên Quang; Nơi ĐKHKTT: Thôn Làng Lạc, xã X, huyện C, tỉnh Tuyên Quang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; con ông Lương Ngọc H, sinh năm 1973; con bà Phạm Thị O, sinh năm 1975; anh chị em ruột: Có 02 người, bị cáo là thứ hai; chồng: Nguyễn Văn T sinh năm 1992; con: Có 01 con, sinh năm 2016; Tiền án: Không; Tiền sự: Năm 2021 bị Công an huyện C, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma tuý, theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 15/QĐ-XPVPHC ngày 20/12/2021, phạt tiền 750.000 đồng;
Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/7/2022 hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang.
(Có mặt tại phiên tòa).
3. Họ và tên: Bùi Công N; sinh ngày 12/6/1993 tại huyện C, tỉnh Tuyên Quang; Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố Vĩnh Hưng, thị trấn V, huyện C, tỉnh Tuyên Quang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; con ông Bùi Công D, sinh năm 1970; con bà Lê Ngọc H, sinh năm 1974; anh chị em ruột: Có 02 người, bị cáo là thứ nhất; vợ: Trần Thu T, sinh năm 1999; con: 01 con, sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/7/2022 hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang.
(Có mặt tại phiên tòa).
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Anh T, sinh năm 1963; địa chỉ: Tổ dân phố Tân Kỳ, thị trấn H, tỉnh Tuyên Quang.
(Vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 05/7/2022, Bùi Công N sinh năm 1993, trú tại tổ dân phố Vĩnh Hưng, thị trấn V, huyện C, tỉnh Tuyên Quang và Lương Thị Lan C sinh năm 2001, trú tại thôn Làng Lạc, xã X, huyện C cùng rủ nhau đến thị trấn T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang để chơi với Hà Việt A sinh năm 2001, trú tại tổ dân phố Vĩnh Quý, thị trấn V, huyện C, tỉnh Tuyên Quang, đang thuê trọ tại thị trấn T, huyện H, để đi làm nhân viên phục vụ tại các quán Karaoke trên địa bàn thị trấn. Khoảng 16 giờ cùng ngày đến nơi, N, C và V cùng thuê xe ô tô taxi (không xác định được) để đi chơi, trên xe V nảy sinh ý định sử dụng ma túy đá nên rủ N, C cùng sử dụng, N và C đồng ý. V bảo không có tiền thì C bảo trong tài khoản của C có tiền còn N bảo có tiền mặt. V biết một người tên “V” ở khu vực Km 20 Quốc lộ 2 có ma túy đá bán nên bảo lái xe đưa cả ba đến khu vực Km 20 Quốc lộ 2. Đến nơi, V xuống xe đi bộ thì gặp “V”, V hỏi mua 1.500.000 đồng ma túy đá, “V” đồng ý và bảo chuyển tiền qua tài khoản số 10986997X6 của Hoàng Quốc V sinh năm 1990, trú tại tổ dân phố Nghĩa Trung, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. V quay lại xe ô tô hỏi tiền thì N có tiền mặt không có tiền trong tài khoản, lúc này C sử dụng điện thoại di động vào ứng dụng VietinBank iPay chuyển số tiền 1.500.000 đồng từ tài khoản số 1048708X20 của C vào số tài khoản 10986997X6 của Việt. Sau khi C chuyển tiền, V quay lại gặp “V”, được “V” đưa cho 01 túi nilon màu trắng, có mép viền màu đỏ, bên trong là chất ma túy dạng tinh thể màu hồng, V xin “V” một bộ dụng cụ để sử dụng ma túy đá, thì “V” đưa cho V 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá cấu tạo gồm: 01 chai nhựa màu trắng nắp nhựa màu xanh có 02 lỗ, một lỗ cắm ống hút bằng nhựa màu xanh, lỗ còn lại gắn cóng thủy tinh. Sau đó V quay lại xe ô tô taxi đưa bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá cho N cầm và đưa gói ma túy cho C cầm, sau đó cả ba cùng quay lại thị trấn T, huyện H, N trả tiền xe taxi hết 800.000 đồng.
Khoảng 21 giờ cùng ngày, N, C, V thuê phòng 205, Nhà nghỉ Anh Thơ, của gia đình ông Nguyễn Văn T sinh năm 1963 tại tổ dân phố Tân Kỳ, thị trấn T, huyện H để làm nơi nghỉ và cùng nhau sử dụng ma túy. Sau khi thuê phòng, V về phòng trọ đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày thì quay lại phòng 205 để cùng N và C sử dụng ma túy bằng cách lấy một ít chất tinh thể màu hồng cho vào bộ dụng cụ để sử dụng ma túy đá đốt hít vào cơ thể số ma túy còn lại gói lại như cũ để ở bàn. Sau khi sử dụng xong V về nhà trọ, N và C nghỉ tại phòng.
Khoảng 18 giờ ngày 06/7/2022, Công an huyện H nhận được tố giác của quần chúng nhân dân có người sử dụng ma túy tại nhà nghỉ Anh Thơ, tổ công tác Công an huyện H đến kiểm tra phòng 205 thì C cất giấu số ma túy còn lại vào sọt rác trong nhà vệ sinh. Quá trình kiểm tra phát hiện gói ma túy còn lại C cất giấu trong sọt rác, tổ công tác lập biên bản bắt người quả tang và niêm phong gói ma túy để giám định.
Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Lương Thị Lan C, Bùi Công N và Hà Việt A, ngày 06/7/2022 kết quả: (+) Dương tính, có chất ma túy trong cơ thể.
Kết luận định giám định số 828/KL-KTHS ngày 11/7/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng 0,715g (Không phẩy bảy một năm gam).
Tại Cáo trạng số 78/CT-VKSHY, ngày 17 tháng 10 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Tuyên Quang, đã truy tố các bị cáo Hà Việt A, Lương Thị Lan C, Bùi Công N về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ những hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Hà Việt A, Lương Thị Lan C, Bùi Công N về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với cả 03 bị cáo; áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hà Việt A; xử phạt bị cáo Hà Việt A từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án; bị cáo Lương Thị Lan C từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam; bị cáo Bùi Công N từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu huỷ 01 chai nhựa màu trắng có vỏ bọc màu xanh ghi chữ AQUAROMA cao 21 cm, đường kính 5,5cm, nắp chai nhựa màu xanh có hai lỗ. Một lỗ gắn ống hút màu xanh dài 24cm đường kính 0,5cm, lỗ còn lại trên gắn cóng thủy tinh màu trắng, đoạn thẳng dài 13,5cm, đoạn gấp khúc dài 3,5cm, 01 bật lửa ga màu đỏ đã qua sử dụng, 01 Bì niêm phong bên trong có ma tuý, mẫu vật còn lại sau giám định; tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động thu giữ của Lương Thị Lan C, là điện thoại bị cáo sử dụng để chuyển tiền mua ma tuý. Ngoài ra, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo, không có ý kiến tranh luận đối với luận tội của Viện kiểm sát; khi nói lời sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, ông Nguyễn Văn T, có đơn xin vắng mặt tại phiên toà, giữ nguyên lời khai tại giai đoạn điều tra, không có ý kiến gì về phần trách nhiệm dân sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, thực hiện việc xét hỏi, tranh tụng đúng quy định tại các Điều 289, 306, 315, 320, 321, 322 của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Căn cứ lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, vật chứng thu giữ được, kết luận giám định, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Các tài liệu, chứng cứ hoàn toàn phù hợp và đủ cở sở kết luận: Khoảng 18 giờ ngày 06/7/2022, tại phòng phòng 205, Nhà nghỉ Anh Thơ, của gia đình ông Nguyễn Văn T tổ dân phố Tân Kỳ, thị trấn T, Hà Việt A sinh năm 2001, trú tại tổ dân phố Vĩnh Quý, thị trấn V, huyện C, tỉnh Tuyên Quang; Lương Thị Lan C sinh năm 2001, trú tại thôn Làng Lạc, xã X, huyện C và Bùi Công N sinh năm 1993, trú tại tổ dân phố Vĩnh Hưng, thị trấn V, huyện C, tỉnh Tuyên Quang cùng có hành vi tàng trữ trái phép 0,715g (Không phẩy bảy một năm gam) ma túy, loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng. Hành vi tàng trữ 0,715gam Methamphetamine để sử dụng mà các bị cáo thực hiện đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại các điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố các bị cáo như nội dung Cáo trạng là hoàn toàn đúng người, đúng tội, có căn cứ.
Hành vi phạm tội mà các bị cáo thực hiện xâm phạm trực tiếp đến các quy định về độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân và có thể là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực nhận thức, có trình độ học vấn, các bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng là hành vi trái pháp luật, bị nghiêm cấm. Nhưng để thoả mãn thú vui của bản thân mà các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi tàng trữ ma tuý để sử dụng, các bị cáo phạm tội hoàn toàn do lỗi cố ý. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành tội xét thấy cần áp dụng mức hình phạt tù nghiêm khắc vi phạm tuổi đã mới du tác dụng giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo; các bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội mà mình đã thực hiện, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; bị cáo Hà Việt A đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo A.
Các bị cáo tuổi đời còn trẻ, đều có con nhỏ cần nuôi dưỡng; bị cáo N cả hai vợ chồng đều không có việc làm, thu nhập ổn định; các bị cáo A, C chồng đều đang đi chấp hành án phạt tù, các bị cáo có con còn nhỏ, cần sự chăm sóc của bố mẹ. Cần xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo có điều kiện cải tạo tốt, sớm được tái hoà nhập cộng đồng, lao động, nuôi dưỡng các con.
Trong vụ án này các bị cáo phạm tội có tính chất đồng phạm, nhưng chỉ là đồng phạm giản đơn, nên áp dụng mức hình phạt đối với các bị cáo ngang bằng nhau. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.
Các bị cáo đều làm nghề tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
[5] Xử lý vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã tạm giữ 01 Điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5S màu đen đã qua sử dụng của Lương Thị Lan C; 01 chai nhựa màu trắng có vỏ bọc màu xanh ghi chữ AQUAROMA cao 21 cm, đường kính 5,5cm, nắp chai nhựa màu xanh có hai lỗ. Một lỗ gắn ống hút màu xanh dài 24cm đường kính 0,5cm, lỗ còn lại trên gắn cóng thủy tinh màu trắng, đoạn thẳng dài 13,5cm, đoạn gấp khúc dài 3,5cm (bộ dụng cụ tự chế để sử dụng ma tuý); 01 bật lửa ga màu đỏ đã qua sử dụng. 01 Bì niêm phong còn nguyên vẹn mặt trước ghi tang vật vụ Lương Thị Lan C giám định ngày 06/7/2022, mặt sau các mép dán kín có chữ ký giáp lai của thành phần tham gia niêm phong và 05 hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự.
Đối với bộ dụng cụ tự chế để sử dụng ma tuý; 01 bật lửa ga màu đỏ đã qua sử dụng, 01 Bì niêm phong là vật chứng trực tiếp của vụ án cần tịch thu tiêu huỷ.
Đối với 01 Điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5S màu đen của bị cáo Lương Thị Lan C, là điện thoại bị cáo sử dụng để chuyển khoản tiền mua ma tuý, cần tịch thu để sung ngân sách Nhà nước theo quy định.
[6] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Chinh, N và V ngày 27/9/2022 Chủ tịch UBND huyện H đã xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền đối với Chinh, Cảnh cáo đối với N và Việt Anh.
Đối với ông Nguyễn Văn T chủ Nhà nghỉ Anh Thơ khi cho C, N và V thuê phòng không biết C, N và V sử dụng phòng thuê để tàng trữ, sử dụng chất ma túy, tuy nhiên ông Thơ thiếu trách nhiệm trong việc quản lý cơ sở cho thuê lưu trú để khách sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 30/9/2022, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện H đã xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền.
Đối với Hoàng Quốc V chủ tài khoản số 10986997X6, ngày 05/7/2022, Việt cho một người đàn ông không quen biết nhờ chuyển số tiền 1.500.000 đồng và trả lại tiền mặt. Tiến hành cho Hà Việt A nhận dạng Hoàng Quốc V, Hà Việt A xác định Hoàng Quốc V không phải là người bán ma túy cho mình nên không có căn cứ để xử lý đối với Hoàng Quốc V.
Đối với người bán ma túy cho Hà Việt A, không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án.
Đối với lý lịch của bị can Lương Thị Lan C sinh con khi mới 16 tuổi có dấu hiệu của tội phạm Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, xảy ra ở địa bàn huyện C. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã chuyển tài liệu đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C để giải quyết theo thẩm quyền.
Những nội dung đã nêu ở trên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét xử lý.
[7] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; các bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với cả 03 bị cáo; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hà Việt A.
Tuyên bố: Các bị cáo Hà Việt A, Lương Thị Lan C, Bùi Công N, phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt: Bị cáo Hà Việt A 01 (Một) năm 04 (Bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.
Xử phạt: Bị cáo Lương Thị Lan C 01 (Một) năm 04 (Bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 06/7/2022.
Xử phạt: Bị cáo Bùi Công N 01 (Một) năm 04 (Bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 06/7/2022.
2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 01 chai nhựa màu trắng có vỏ bọc màu xanh ghi chữ AQUAROMA cao 21 cm, đường kính 5,5cm, nắp chai nhựa màu xanh có hai lỗ. Một lỗ gắn ống hút màu xanh dài 24cm đường kính 0,5cm, lỗ còn lại trên gắn cóng thủy tinh màu trắng, đoạn thẳng dài 13,5cm, đoạn gấp khúc dài 3,5cm (bộ dụng cụ tự chế để sử dụng ma tuý); 01 bật lửa ga màu đỏ đã qua sử dụng. 01 Bì niêm phong còn nguyên vẹn mặt trước ghi tang vật vụ Lương Thị Lan C giám định ngày 06/7/2022, mặt sau các mép dán kín có chữ ký giáp lai của thành phần tham gia niêm phong và 05 hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự.
Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 Điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5S màu đen đã qua sử dụng của bị cáo Lương Thị Lan C.
(Tình trạng vật chứng như Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H với Chi cục Thi hành án dân sự huyện H ngày 20/10/2022)
3. Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các bị cáo Hà Việt A, Lương Thị Lan C, Bùi Công N, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo, có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; ông Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án theo quy định.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 82/2022/HS-ST
Số hiệu: | 82/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về