TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 82/2022/HS-ST NGÀY 12/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 76/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 100/2022/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 7 năm 2022, đối với bị cáo: Phan Đình P – sinh năm 1997 tại Đồng Nai.
Nơi cư trú: ấp 1, xã G, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn V – sinh năm 1972 và bà Phạm Thị Nguyệt H – sinh năm 1975; chung sống như vợ chồng với chị Trần Mỹ D, sinh năm 1996, chưa có con; tiền sự: Không; nhân thân: Không.
- Tiền án:
02 + Tại Bản án số 47/2016/HSST ngày 12/7/2016 của Tòa án nhân dân huyện Tân P, tỉnh Đồng Nai xử phạt Phan Đình P 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Phan Đình P đã chấp hành xong hình phạt tù tại Trại tạm giam (B5) - Công an tỉnh Đồng Nai ngày 12/01/2017, đã đóng 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và đã nộp 612.500 đồng tiền thu lợi bất chính sung công quỹ Nhà nước vào tháng 7/2018.
+ Tại Bản án số 126/2017/HSST ngày 21/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đồng Nai xử phạt Phan Đình P 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Phan Đình P đã chấp hành xong hình phạt tù tại Trại giam 1 Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai ngày 18/01/2020 và đã đóng 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào tháng 5/2018.
Bị bắt ngày 25/01/2022, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện Định cho đến nay “có mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 20 giờ 30 Pt ngày 15/8/2021 tại ấp 4, xã P Lợi, huyện Đ, Công an huyện Đ phối hợp cùng Công an xã P Lợi bắt quả tang Phan Đình P có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Quá trình điều tra, Phan Đình P khai nhận như sau:
Phan Đình P là đối tượng nghiện ma túy, có hai tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” và “Mua bán trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích.
Qua mối quen biết ngoài xã hội, P quen biết với Trần Nam Giang, sinh năm 1988 và vợ của Giang là Phạm Thị Tường V, sinh năm 1993, cùng hộ khẩu thường trú ấp 1, xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai. Hiện tại, G và V đang sinh sống tại ấp 3, xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai có bán ma túy nên vào khoảng hơn 15 giờ ngày 15/08/2021, Phan Đình P đón xe ôm đến khu vực đoạn đường thuộc ấp 3, xã P, huyện Đ gặp G hỏi mua được 400.000 đồng ma túy đá, G đồng ý và đưa cho P 02 bịch nylon hàn kín chứa ma túy đá. Sau khi P mua được ma túy đã mang về nhà cất giấu trong hộp giấy màu vàng ở trong bếp để sử dụng. Đến khoảng 20 giờ 30 phút, lực lượng Công an tiến hành kiểm tra hành chính chỗ ở của Phan Đình P phát hiện, thu giữ 02 bịch nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng (nghi vấn là ma túy đá) được P cất giấu trong khu vực bếp của nhà P. Cơ quan công an đã tiến hành lập biên bản, niêm phong tang vật và đưa Phan Đình P cùng tang vật về trụ sở để làm việc. Tại trụ sở Công an, P khai nhận đã mua ma túy của G được nhiều lần, mỗi lần cần mua ma túy thì P đến gặp G hoặc V để mua từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng ma túy đá.
Tại Cơ quan điều tra, Phan Đình P đã thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bản thân.
Vật chứng vụ án:
- 02 bịch nylon được hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng thu giữ trong hộp giấy màu vàng để trong phòng bếp căn nhà mà P đang ở, đã được niêm phong có chữ ký ghi họ tên Phan Đình P, người chứng kiến Trần Mỹ D và dấu mộc đỏ của Công an xã P Lợi.
Căn cứ Bản kết luận số 1809/KLGĐ-PC09 ngày 15/9/2021, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai xác định: Mẫu niêm phong được thu giữ gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là 0,3552 gam, loạ i Methamphetamine.
- 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy.
Tại Cáo trạng số 51/CT-VKS ngày 25/5/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Phan Đình P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” theo điểm c khoản 1 và điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 và điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Phan Đình P từ 05 năm 06 tháng tù và 06 năm tù.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy:
- 01 gói niêm phong mẫu vật ma túy (sau giám định) vụ số 1809/KLGĐ- PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai.
- 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Căn cứ để kết tội đối với bị cáo: Căn cứ vào bản tự khai, biên bản ghi lời khai, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản hỏi cung và sự thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ, thể hiện: Vào khoảng 20 giờ 30 Pt ngày 15/8/2021 tại ấp 4, xã Phú Lợi, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai Phan Đình P đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,3552 gam, loại: Methamphetamine, bị cáo có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” và “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm c khoản 1 và điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng số 51/CT- VKSĐQ ngày 25 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã mô tả là đúng người, đúng tội.
Đối với việc Phan Đình P khai nhận đã nhiều lần mua ma túy của Trần Nam G và Phạm Thị Tường V. Tuy nhiên, qua làm việc với P tại biên bản hỏi cung và qua đối chất giữa P và Giang, xác định P có mua ma túy của G và V nhiều lần nhưng chỉ lần bị bắt quả tang xác định được trọng lượng ma túy còn các lần khác không xác định được trọng lượng là bao nhiêu, số ma túy trên P đã sử dụng hết nên không có cơ sở để giám định. Vì vậy, không có cơ sở truy tố P về tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên” theo điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.
[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma túy, xâm phạm an ninh, trật tự trong xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an, an toàn xã hội, gây ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, nhân cách con người. Bị cáo đã hai lần phạm tội và bị xét xử về hành vi trộm cắp tài sản và mua bán trái phép chất ma túy nhưng không coi đó là bài học mà lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, việc đưa bị cáo ra xét xử với mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi của bị cáo gây ra, nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật và răn đe phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Phan Đình P không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải thuộc trường hợp quy định s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo là lao động chính trong gia đình, trình độ học vấn thấp là những tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về xử lý vật chứng:
- 01 gói niêm phong mẫu vật ma túy (sau giám định) vụ số 1809/KLGĐ- PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.
- 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy là công cụ phạm tôi nên tịch thu tiêu hủy.
[6] Về các vấn đề khác: Đối với Trần Nam G và Phạm Thị Tường V đã bán ma túy cho Phan Đình P. Ngày 14/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Đ đã tiến hành bắt về hành vi tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy, hiện tại đang được điều tra, xử lý ở vụ án khác.
[7] Về án phí: Bị cáo Phan Đình P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[8] Xét ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh, điều khoản, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và xử lý vật chứng và các vấn đề khác trong vụ án là phù hợp, có căn cứ chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 và điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;
1. Tuyên bố bị cáo Phan Đình P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Phan Đình P 06 (sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/01/2022.
2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy:
- 01 gói niêm phong mẫu vật ma túy (sau giám định) vụ số 1809/KLGĐ- PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai.
- 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy.
(Đặc điểm, tình trạng vật chứng tuyên tiêu hủy theo biên bản giao về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 08 tháng 7 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ).
3. Về án phí: Bị cáo Phan Đình P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 82/2022/HS-ST
Số hiệu: | 82/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Định Quán - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về