TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN Ô MÔN, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 79/2023/HS-ST NGÀY 22/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 22 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận M xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 78/2023/HSST ngày 18 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn T, sinh ngày 20/4/2001.
Nơi sinh: C; Giới tính: Nam.
Nơi cư trú: Khu vực LĐ, phường Long Hưng, quận M, thành phố C.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: không;
Trình độ văn hóa: 01/12;
Họ và tên cha: không rõ; Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1964 (sống); Anh chị em: bị cáo là con một trong gia đình; vợ, con: chưa có.
Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/7/2023 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an quận M, thành phố C.
(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :
1/ Ông Nguyễn Hoàng B, sinh năm 1968 (vắng mặt).
Địa chỉ: khu vực TM, phường Thới Long, quận M, thành phố C.
2/ Bà Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1964 (có mặt).
Địa chỉ: khu vực LĐ, phường Long Hưng, quận M, thành phố C.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 05 giờ 05 phút, ngày 27 tháng 7 năm 2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận M tiếp nhận tin Bo qua điện thoại từ người dân nội dung: Phát hiện 02 đối tượng Lý Phước N cùng với Nguyễn Văn T có biểu hiện nghi vấn tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy tại nhà của Lý Phước N, địa chỉ tại khu vực Rạch Sung, phường Thới Long, quận M, thành phố C. Sau khi tiếp nhận tin Bo Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận M kết hợp với Công an phường Thới Long, quận M, thành phố C tiến hành xác minh và khám xét khẩn cấp nơi ở của Lý Phước N, địa chỉ tại khu vực Rạch Sung, phường Thới Long, quận M, thành phố C, khi lực lượng công an đến thì Lý Phước N bỏ chạy thoát, lực lượng công an tiến hành khám xét phòng ngủ của Lý Phước N, tại thời điểm khám xét có Nguyễn Văn T đang ở trong phòng nên lực lượng công an tiến hành khám xét người đối với Nguyễn Văn T.
Qua khám xét lực lượng công an thu giữ: 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng có một đầu hở, bên trong có chứa các hạt tinh thể không màu được thu giữ trên nền gạch trong phòng của Lý Phước N; 01 căn cước công dân số 09209100xxxx mang tên Lý Phước N đã qua sử dụng; 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng đã qua sử dụng; 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng; 01 quẹt gas màu xanh đã qua sử dụng; 01 quẹt gas màu đỏ đã qua sử dụng; 01 đầu khò lửa màu xanh, tay cầm trên màu đen, đã qua sử dụng; 01 chai gas mini có ghi chữ Max màu trắng, đỏ đã qua sử dụng; 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng có một đầu cắt nhọn, một đầu hàn kín đã qua sử dụng;
01 đoạn ống hút nhựa màu sọc trắng, có một đầu hàn kín, một đầu cắt nhọn đã qua sử dụng; 04 vỏ gói nilon không màu, có một đầu cắt nhọn đã qua sử dụng; 01 bình tự chế bằng nhựa, gắn nắp màu đỏ có khoét 02 lỗ, một lỗ gắn đoạn ống hút nhựa sọc tím trắng tiếp nối với đoạn ống hút nhựa màu trắng đục tiếp nối đoạn thủy tinh, một lỗ gắn đoạn ống hút nhựa màu trắng đục tiếp nối đoạn ống hút màu trắng tiếp nối đoạn ống hút nhựa màu trắng đục đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động màu đen có ghi chữ Nokia, số Imei: 353419044505548, gắn sim Mobifone sêri: 840123029223xxxx có số thuê bao 090785xxxx đã qua sử dụng; thu giữ của Nguyễn Văn T tiền Việt Nam 430.000 đồng; 01 căn cước công dân số 09220100xxxx mang tên Nguyễn Văn T đã qua sử dụng; 01 giấy chứng nhận xe mô tô, xe gắn máy số 6500xxxx đăng ký số 65B2-xxxxx mang tên Nguyễn Hoàng B đã qua sử dụng; 01 cái bóp da màu nâu đã qua sử dụng; 01 sim 4G Mobifone có số sêri: 840121075001xxxxx đã qua sử dụng; 01 xe mô tô biển số 65B2-xxxxx, số khung: LWGXCHL00154112, số máy: LC152FMH01890143 màu xanh, nhãn hiệu FASTER, số loại C110, dung tích xi lanh 109cm3 đã qua sử dụng.
Quá trình điều tra Nguyễn Văn T khai nhận: Khoảng 18 giờ, ngày 26 tháng 7 năm 2023 Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô biển số 65B2-xxxxx đến nhà của Lý Phước N chơi. Khi đến thì N rủ T hùn tiền để mua ma túy về sử dụng chung thì T đồng ý, do N không có tiền nên T đưa ra trước số tiền 200.000 đồng, trong đó mỗi người hùn 100.000 đồng rồi đưa cho N. Lúc này N kêu T nằm trong phòng ngủ của N đợi còn N đi ra khỏi phòng một lúc thì đi vào đưa cho T một đoạn ống hút bên trong có chứa chất ma túy, T lấy ra một ít sử dụng, phần còn lại T để lại cho N. Sau khi sử dụng xong thì T nằm ngủ, đến sáng ngày 27 tháng 7 năm 2023 bị lực lượng công an khám xét thu giữ gói ma túy trên. Đối với Lý Phước N khi thấy lực lượng công an đến đã chạy thoát. Mục đích mua ma túy của T là để sử dụng ngoài ra không có mục đích gì khác, về nguồn gốc ma túy N mua của ai thì T không biết.
Tại kết luận giám định số 254/KL-KTHS ngày 03 tháng 8 năm 2023 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố C kết luận: Tinh thể không màu trong đoạn ống nhựa gửi giám định, là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,1455 gam.
Đối với Lý Phước N sau khi thấy lực lượng công an đến đã bỏ chạy thoát. Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận M, thành phố C đã quyết định truy tìm nhưng đến nay vẫn chưa tìm thấy nên chưa làm việc được, khi nào làm việc được đủ căn cứ sẽ xử lý sau.
Đối với căn nhà địa chỉ tại khu vực Rạch Sung, phường Thới Long, quận M, thành phố C do ông Lý Thành N và bà Huỳnh Thị Ngọc A quản lý và sở hữu, việc T và N cất giấu ma túy thì ông N và bà A không biết nên không xem xét xử lý.
Tại Bản cáo trạng số 78/CT-VKSOM ngày 16 tháng 10 năm 2023 Viện kiểm sát nhân dân quận M đã truy tố Nguyễn Văn T có hành vi phạm tội và lý lịch như trên ra trước Tòa án nhân dân quận M để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận M trình bày lời luận tội vẫn giữ quan điểm truy tố bị cáo T theo tội danh và điều luật đã nêu trong cáo trạng. Đồng thời phân tích những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.
Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 gói mẫu vật ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau khi giám định có khối lượng 0,1455gam được niêm phong số 254/KL- KTHS, ngày 03/8/2023, chữ ký cán bộ niêm phong tên Đặng Thúy H, có đóng dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố C. 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng đã qua sử dụng; 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng; 01 quẹt gas màu xanh đã qua sử dụng; 01 quẹt gas màu đỏ đã qua sử dụng; 01 đầu khò lửa màu xanh, tay cầm trên màu đen, đã qua sử dụng; 01 chai gas mini có ghi chữ Max màu trắng, đỏ đã qua sử dụng; 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng có một đầu cắt nhọn, một đầu hàn kín đã qua sử dụng; 01 đoạn ống hút nhựa màu sọc trắng, có một đầu hàn kín, một đầu cắt nhọn đã qua sử dụng; 04 vỏ gói nilon không màu, có một đầu cắt nhọn đã qua sử dụng; 01 bình tự chế bằng nhựa, gắn nắp màu đỏ có khoét 02 lỗ, một lỗ gắn đoạn ống hút nhựa sọc tím trắng tiếp nối với đoạn ống hút nhựa màu trắng đục tiếp nối đoạn thủy tinh, một lỗ gắn đoạn ống hút nhựa màu trắng đục tiếp nối đoạn ống hút màu trắng tiếp nối đoạn ống hút nhựa màu trắng đục đã qua sử dụng;
- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T: tiền Việt Nam 430.000 đồng; 01 căn cước công dân số 09220100xxxx mang tên Nguyễn Văn T đã qua sử dụng; 01 cái bóp da màu nâu đã qua sử dụng; 01 sim 4G Mobifone có số sêri: 840121075001xxxxx đã qua sử dụng;
- Trả lại cho bà Nguyễn Thị Kim H: 01 giấy chứng nhận xe mô tô, xe gắn máy số 6500xxxx đăng ký số 65B2-xxxxx mang tên Nguyễn Hoàng B đã qua sử dụng;
01 xe mô tô biển số 65B2-xxxxx, số khung: LWGXCHL00154112, số máy: LC152FMH01890143 màu xanh, nhãn hiệu FASTER, số loại C110, dung tích xi lanh 109cm3 đã qua sử dụng.
- Trả lại cho Lý Phước N: 01 căn cước công dân số 09209100xxxx mang tên Lý Phước N đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động màu đen có ghi chữ Nokia, số Imei: 353419044505548, gắn sim Mobifone sêri: 840123029223xxxx có số thuê bao 090785xxxx đã qua sử dụng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng hình sự: Các quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, hành vi tố tụng của điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án; quyết định tố tụng của Viện kiểm sát và hành vi tố tụng của Kiểm sát viên trong giai đoạn truy tố là đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Về căn cứ buộc tội: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên Tòa hôm nay bị cáo T thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo T thừa nhận rằng vào ngày 26/7/2023 bị cáo đến nhà của Lý Phước N chơi. Khi đến thì N rủ T hùn tiền để mua ma túy về sử dụng chung thì T đồng ý, do N không có tiền nên T đưa ra trước số tiền 200.000 đồng, trong đó mỗi người hùn 100.000 đồng rồi đưa cho N. Lúc này N kêu T nằm trong phòng ngủ của N đợi còn N đi ra khỏi phòng một lúc thì đi vào đưa cho T một đoạn ống hút bên trong có chứa chất ma túy, T lấy ra một ít sử dụng, phần còn lại T để lại cho N. Sau khi sử dụng xong thì T nằm ngủ, đến sáng ngày 27 tháng 7 năm 2023 bị lực lượng công an khám xét thu giữ gói ma túy trên. Đối với Lý Phước N khi thấy lực lượng công an đến đã chạy thoát. Mục đích mua ma túy của T là để sử dụng ngoài ra không có mục đích gì khác, về nguồn gốc ma túy N mua của ai thì T không biết.
Lời thừa nhận của bị cáo Nguyễn Văn T phù hợp với các tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận M thu thập hợp pháp như: Lệnh khám xét khẩn cấp ngày 27/7/2023; Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp ngày 27/7/2023; Biên bản khám xét ngày 27/7/2023; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; Bản tự khai/Bản tường trình ngày 27/7/2023.
Tại kết luận giám định số 254/KL-KTHS ngày 03 tháng 8 năm 2023 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố C kết luận: Tinh thể không màu trong đoạn ống nhựa gửi giám định, là ma túy, loại Methamhetamine, khối lượng 0,1455 gam. Từ đó, có đủ cơ sở chứng minh Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như cáo trạng truy tố là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[3] Về tính chất, mực đồ hành vi phạm tội: Hnh vi phạm tội mà bị cáo thực hiện không những trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy mà còn xâm phạm trật tự trị an xã hội, gây thiệt hại đến sức khỏe của chính những người sử dụng trái phép chất ma túy, nguy hiểm hơn là người dùng loại ma túy này có thể bị ảnh hưởng đến sức khỏe. Vì vậy, Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi mua Bn, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép chất ma túy. Hnh vi của bị cáo còn làm phát sinh nhiều loại tội phạm hình sự khác. Bị cáo là người trưởng thành đã đủ năng lực nhận thức và điều chỉnh hành vi, biết rõ tác hại và hậu quả của ma túy nhưng vì có lối sống trụy lạc của mình, mà bị cáo xem thường pháp luật đây là lỗi cố ý trong việc phạm tội. Để giáo dục và răn đe bị cáo, đồng thời cũng góp phần đấu tranh loại tội phạm này, cần có mức án tương xứng cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.
Như vậy, về hình phạt đối với bị cáo như Viện kiểm sát nhân dân quận M đề nghị là phù hợp.
[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:
[4.1] Về tình tiết tang nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai Bo hành vi phạm tội của mình nên được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về tang vật: Như Viện kiểm sát nhân dân quận M đề nghị là phù hợp. Kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận M xác minh đối với Lý Phước N để xử lý theo quy định của pháp luật tránh bỏ lọt tội phạm.
[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 249 Bộ luật hình sự;
Tuyên bố: Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Nguyễn Văn T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.
Thời hạn phạt tù tính từ ngày 27/7/2023.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng: Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
- Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 gói mẫu vật ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau khi giám định có khối lượng 0,1455gam được niêm phong số 254/KL- KTHS, ngày 03/8/2023, chữ ký cán bộ niêm phong tên Đặng Thúy H, có đóng dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố C. 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng đã qua sử dụng; 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng; 01 quẹt gas màu xanh đã qua sử dụng; 01 quẹt gas màu đỏ đã qua sử dụng; 01 đầu khò lửa màu xanh, tay cầm trên màu đen, đã qua sử dụng; 01 chai gas mini có ghi chữ Max màu trắng, đỏ đã qua sử dụng; 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng có một đầu cắt nhọn, một đầu hàn kín đã qua sử dụng; 01 đoạn ống hút nhựa màu sọc trắng, có một đầu hàn kín, một đầu cắt nhọn đã qua sử dụng; 04 vỏ gói nilon không màu, có một đầu cắt nhọn đã qua sử dụng; 01 bình tự chế bằng nhựa, gắn nắp màu đỏ có khoét 02 lỗ, một lỗ gắn đoạn ống hút nhựa sọc tím trắng tiếp nối với đoạn ống hút nhựa màu trắng đục tiếp nối đoạn thủy tinh, một lỗ gắn đoạn ống hút nhựa màu trắng đục tiếp nối đoạn ống hút màu trắng tiếp nối đoạn ống hút nhựa màu trắng đục đã qua sử dụng;
- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T: tiền Việt Nam 430.000 đồng; 01 căn cước công dân số 09220100xxxx mang tên Nguyễn Văn T đã qua sử dụng; 01 cái bóp da màu nâu đã qua sử dụng; 01 sim 4G Mobifone có số sêri: 840121075001xxxxx đã qua sử dụng;
- Trả lại cho bà Nguyễn Thị Kim H: 01 giấy chứng nhận xe mô tô, xe gắn máy số 6500xxxx đăng ký số 65B2-xxxxx mang tên Nguyễn Hoàng B đã qua sử dụng;
01 xe mô tô biển số 65B2-xxxxx, số khung: LWGXCHL00154112, số máy: LC152FMH01890143 màu xanh, nhãn hiệu FASTER, số loại C110, dung tích xi lanh 109cm3 đã qua sử dụng.
- Trả lại cho Lý Phước N: 01 căn cước công dân số 09209100xxxx mang tên Lý Phước N đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động màu đen có ghi chữ Nokia, số Imei: 353419044505548, gắn sim Mobifone sêri: 840123029223xxxx có số thuê bao 090785xxxx đã qua sử dụng;
Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng: Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng). Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo và các đương sự có mặt được quyền kháng cáo. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định để yêu cầu Toà án nhân dân thành phố C xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 79/2023/HS-ST
Số hiệu: | 79/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ô Môn - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về