Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 79/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 79/2021/HS-ST NGÀY 09/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 83/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 134/2021/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Lê Bá H; sinh ngày 17 tháng 6 năm 1984 tại Thanh Hóa; nơi cư trú: Số nhà ..., đường H, thôn P, xã C, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Bá C và bà Lê Thị X; vợ: Lê Thị H (đang chấp hành hình phạt tù) và có 01 con; tiền sự: Không; tiền án: Bản án phúc thẩm số 265/2016/QĐ-HSPT ngày 23/11/2016 Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xử phạt 07 tháng tù về tội "Đánh bạc", chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/10/2017; Bản án sơ thẩm số 23/2019/HS-ST ngày 11/4/2019 Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa xử phạt 07 tháng tù về tội "Đánh bạc" và phạt bổ sung 10.000.000 đồng, chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/7/2019 và chưa chấp hành hình phạt bổ sung; bị bắt và tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/8/2021. Có mặt.

2. Nguyễn Trọng Đ; sinh ngày 28 tháng 10 năm 1975 tại Thanh Hóa; nơi cư trú: Thôn G, xã C, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trọng N và bà Lê Thị N; vợ: Lê Thị Phương T (đã ly hôn) và có 01 con; tiền sự: Không; tiền án: Bản án sơ thẩm số 11/2019/HS-ST ngày 30/01/2019 Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa xử phạt 24 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy", chấp hành xong hình phạt ngày 23/8/2020; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/8/2021 đến nay. Có mặt.

Ngưi làm chứng:

1. Anh Lê Duy T, sinh năm 1986. Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn S, xã C, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

2. Anh Lê Văn D, sinh năm 1985. Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn T, xã C, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

3. Anh Lê Đình T, sinh năm 1979. Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn P, xã C, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

4. Anh Nguyễn Ngọc C, sinh năm 1986. Vắng mặt. Địa chỉ: Phường L, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

5. Anh Lê Chuẩn T, sinh năm 1972. Vắng mặt.

Địa chỉ: Khu phố K, phường T, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18h15’ngày 10/8/2021, tại thôn G, xã C, huyện H, tỉnh Thanh Hóa, tổ công tác Công an xã C phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Trọng Đ đang tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ tại lỗ vặn gương chiếu hậu bên phải xe môtô nhãn hiệu Wave Alpha màu đỏ biển kiểm soát 36L5-66… Đ đang điều khiển được 01 gói giấy ôly màu trắng kích thước 2x2cm, bên trong có chứa chất bột màu trắng, được niêm phong vào phong bì do Công an xã C phát hành được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký chữ viết của các thành phần tham gia và các hình dấu tròn có nội dung Công an xã C, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Theo lời khai của Đ, số ma túy Đ tàng trữ là mua của Lê Bá H.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Hoàng tại số nhà …, đường H, thôn P, xã C, huyện H, tỉnh Thanh Hóa, cơ quan điều tra thu giữ được 02 gói giấy ôly màu trắng, kích thước (2x2)cm bên trong mỗi gói chứa chất bột màu trắng, được niêm phong trong phong bì thư do Công an huyện Hoằng Hóa phát hành, niêm phong và dán kín dập ghim 4 góc có các chữ ký, chữ viết của các thành phần tham gia và được đóng bởi các hình dấu tròn của Công an xã C, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

Kết luận giám định số 2595/PC09 ngày 13/8/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận: Chất bột màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 0,037g (không phẩy không ba bảy gam), loại: Heroine.

Kết luận giám định số 2625/PC09 ngày 17/8/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận: Chất bột màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 0,070g (không phẩy không bảy không gam), loại: Heroine.

Quá trình điều tra xác định: Sáng ngày 10/8/2021, để có tiền tiêu xài cá nhân, Lê Bá H đến khu vực cầu N, thành phố T gặp một người đàn ông không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ mua một gói heroine với số tiền 200.000 đồng rồi đem về nhà tại số nhà …, đường H, thôn P, xã C chia thành 03 gói nhỏ và cất giấu trong vỏ hộp đựng bánh kẹo để dưới chân tủ lạnh trong phòng ngủ để bán kiếm lời; đến khoảng 18h cùng ngày, sau khi trao đổi qua điện thoại, Nguyễn Trọng Đ điều khiển xe môtô nhãn hiệu Wave Alpha màu đỏ biển kiểm soát 36L5- 66… đến nhà H, mua của H 01 gói ma túy với số tiền 100.000 đồng để sử dụng. Trên đường quay về nhà, Đ bị bắt quả tang. Hai gói ma túy còn lại của H, cơ quan điều tra đã thu giữ được khi khám xét; số tiền có được do bán ma túy cho Đ, H đã tiêu sài hết; sau đó, khi bị cơ quan điều tra triệu tập, H đã đến đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng: 01 xe máy nhãn hiệu Wave Alpha màu đỏ, biển kiểm soát 36L5-66…; 01 điện thoại nhãn hiệu Viettel màu đỏ; 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu đen; toàn bộ ma túy còn lại sau giám định chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa để bảo quản chờ xét xử.

Cáo trạng số 84/CT-VKSHH ngày 22 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo Lê Bá H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm q khoản 2 Điều 251; Nguyễn Trọng Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Khoảng 18h ngày 10/8/2021, Nguyễn Trọng Đ có mua của Lê Bá H 100.000 đồng ma túy để sử dụng, cất giấu ở lỗ vặn gương chiếu hậu bên phải xe máy nhãn hiệu Wave Alpha biển kiểm soát 36L5-66… của Đ điều khiển; khi đi về tại thôn G, xã C, huyện H thì tổ công tác Công an xã C phát hiện, bắt quả tang thu giữ cùng vật chứng; số ma túy bị cáo Đ tàng trữ là 0,037g, loại Heroine nhưng bị cáo đã bị kết án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nên bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Sáng ngày 10/8/2021, Lê Bá H đến khu vực cầu N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa gặp một người đàn ông không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ mua một gói heroine với số tiền 200.000 đồng rồi đem về nhà tại số nhà …, đường H, thôn P, xã C chia thành 03 gói nhỏ và cất giấu trong vỏ hộp đựng bánh kẹo để dưới chân tủ lạnh trong phòng ngủ để bán kiếm lời; tổng số ma túy của H là 0,107g (gồm 0,037g H đã bán cho Đ và 0,07g thu giữ khi khám xét nhà H). Khoảng 18h ngày 10/8/2021, Đ có mua của và Lê Bá H đã bán cho Đ 01 tép giá 100.000 đồng. Bị cáo Lê Bá H đã hai lần bị kết án, lần kết án thứ hai chưa chấp hành hình phạt bổ sung, chưa đã xóa án tích nên thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”.

Do đó giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo về tội danh nêu trên và sau khi đánh giá tính chất vụ án, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249 (đối với Đ); điểm q khoản 2 Điều 251 (đối với H); điểm s khoản 1, 2 Điều 51 (đối với Đ); khoản 2 Điều 51 (đối với H); Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Trọng Đ từ 14 tháng tù đến 18 tháng tù; Lê Bá H từ 07 năm tù đến 08 năm tù; vật chứng tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, truy thu tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 100.000 đồng của bị cáo Hoàng, tịch thu 01 xe môtô nhãn hiệu Wave Alpha màu đỏ, biển kiểm soát 36L5-66…, 01 điện thoại nhãn hiệu Viettel màu đỏ, 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu đen sung quỹ nhà nước và buộc mỗi bị cáo chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Trọng Đ thừa nhận hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng đã truy tố, đồng ý với luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa và lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến hoàn cảnh gia đình bị cáo bố già yếu, là lao động chính trong gia đình cho được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất để được sớm trở về gia đình.

Tại phiên tòa bị cáo Lê Bá H thừa nhận số ma túy khám xét trong nhà bị cáo và số ma túy thu giữ của bị cáo Đ là của bị cáo đúng như Cáo trạng đã truy tố, bị cáo cho rằng bị cáo không bán ma túy cho Đ mà chỉ cho bị cáo Đ số ma túy đó để Đ sử dụng và lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến hoàn cảnh gia đình bị cáo là bố mẹ già yếu, vợ hiện đang chấp hành án phạt tù, con còn nhỏ phải gửi bố đẻ chăm sóc, bị cáo là lao động chính trong gia đình nên cho bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất để được sớm trở về gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Khoảng 18h ngày 10/8/2021, Nguyễn Trọng Đ có mua của Lê Bá H ở số nhà ..., đường H, thôn P, xã C, huyện H 100.000 đồng ma túy để sử dụng, cất giấu ở lỗ vặn gương chiếu hậu bên phải xe máy nhãn hiệu Wave Alpha biển kiểm soát 36L5-66… của Đ điều khiển; khi đi về tại thôn G, xã C, huyện H thì tổ công tác Công an xã C phát hiện, bắt quả tang thu giữ tại lỗ vặn gương chiếu hậu bên phải xe máy 01 gói giấy ôly màu trắng kích thước 2x2cm, bên trong có chứa chất bột màu trắng, được niêm phong vào phong bì gửi giám định. Kết luận giám định số 2595/PC09 ngày 13/8/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận: Chất bột màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 0,037g, loại Heroine. Bị cáo Nguyễn Trọng Đ đã bị kết án theo Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2019/HS-ST ngày 30/01/2019 Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa xử phạt 24 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

Do đó hành vi cất giấu trái phép chất ma túy của bị cáo Nguyễn Trọng Đ, mà trước đó đã bị kết án về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" chưa được xóa án tích đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Khoảng 18h ngày 10/8/2021 sau khi trao đổi qua điện thoại, Nguyễn Trọng Đ điều khiển xe môtô đến nhà Lê Bá H, mua của Hoàng 01 gói ma túy với số tiền 100.000 đồng để sử dụng; trên đường quay về nhà, Đ bị bắt quả tang; Nguyễn Trọng Đ khai báo mua số ma túy trên của H, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét tại nhà Lê Bá H, thu giữ 02 gói giấy ôly màu trắng, kích thước 2x2cm, bên trong mỗi gói giấy chứa chất bột màu trắng được niêm phong gửi giám định; sau đó, cơ quan điều tra triệu tập, H đã đến làm đơn đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội là sáng ngày 10/8/2021, H đến khu vực cầu N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa gặp một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ mua một gói ma túy với số tiền 200.000 đồng rồi đem về nhà ở của mình chia thành 03 gói nhỏ và cất giấu trong vỏ hộp đựng bánh kẹo để dưới chân tủ lạnh trong phòng ngủ để bán kiếm lời; tổng số ma túy của H là 0,107g (gồm 0,037g H đã bán cho Đ và 0,07g thu giữ khi khám xét nhà H). Kết luận giám định số 2625/PC09 ngày 17/8/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận: Chất bột màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 0,070g, loại Heroine. Bị cáo Lê Bá H theo Bản án phúc thẩm số 265/2016/QĐ-HSPT ngày 23/11/2016 Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xử phạt 07 tháng tù về tội "Đánh bạc"; Bản án sơ thẩm số 23/2019/HS-ST ngày 11/4/2019 Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa xử phạt 07 tháng tù về tội "Đánh bạc" và phạt bổ sung 10.000.000 đồng, chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/7/2019 và chưa chấp hành hình phạt bổ sung là thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”.

Tại phiên tòa bị cáo Lê Bá H khai nhận số ma túy trên là của H, nhưng H không bán cho Đ mà khi Đ lên nhà chơi, H đã cho Đ 01 tép ma túy để sử dụng và bị cáo khai tại phiên tòa là các lần khai tại cơ quan điều tra là do bị cáo sử dụng ma túy đá nên không tỉnh táo; bị cáo H cũng khai và thừa nhận tại cơ quan điều tra bị cáo làm việc với điều tra viên hoàn toàn không bị ép cung, mớm cung, các điều tra viên không đánh đập, nhục hình đối với bị cáo mà chỉ do bị cáo không tỉnh táo nên đã khai như vậy; tuy nhiên việc bị cáo khai là không tỉnh táo trong khi làm việc do sử dụng ma túy đá là không có căn cứ vì quá trình bị cáo tạm giam cơ quan điều tra đã thực hiện nhiều lần lấy lời khai, lấy cung và bị cáo đã trực tiếp làm bản tự khai, các lần bị cáo đều thống nhất khai đã bán cho Đ ma túy; tại phiên tòa khi công khai đoạn hình ảnh và lời trình bày của bị cáo với điều tra viên, bị cáo thừa nhận đoạn hình ảnh được công khai ghi lại là bị cáo và bị cáo đã khai nội dung như các bản cung; mặt khác tại phiên tòa bị cáo Đ đã khai và đối chất trực tiếp với bị cáo H, bị cáo Đ đều khai số ma túy của bị cáo Đ bị thu giữ là mua của bị cáo H với số tiền 100.000 đồng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác như đoạn hình ảnh trích xuất từ camera an ninh thể hiện việc bị cáo Đ và bị cáo H thực hiện việc mua bán qua lỗ cánh cổng nhà bị cáo H, do đó có đủ căn cứ để xác định khoảng 18h ngày 10/8/2021 bị cáo H đã bán cho bị cáo Đ 01 gói ma túy với số tiền 100.000 đồng.

Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo Lê Bá H đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm của tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

[3] Xét tính chất của vụ án thì thấy: Hành vi của các bị cáo Nguyễn Trọng Đ, Lê Bá H đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự trị an, an toàn xã hội, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, cũng là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, ảnh hưởng xấu đến xã hội; bị cáo Lê Bá H vì mục đích thu lợi bất chính nên đã thực hiện hành vi phạm tội; do đó cần phải xử lý nghiêm, có hình phạt phù hợp nhằm giáo dục các bị cáo, giáo dục chung cho xã hội.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Trọng Đ đã bị kết án về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" chưa được xóa án tích; bị cáo Lê Bá H đã 02 lần bị kết án thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”, nhưng trong vụ án này đã được áp dụng là tình tiết định tội và định khung hình phạt, không coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Trọng Đ quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội; bố đẻ bị cáo Đ có thành tích trong kháng chiến được tặng Huân chương kháng chiến hạng ba, bị cáo Đ sau khi phạm tội đã khai báo giúp cơ quan Công an trong việc phát hiện tội phạm đối với Lê Bá H; bị cáo Lê Bá H phạm tội đã đầu thú, quá trình điều tra đã thành khẩn khai báo, tuy nhiên tại phiên tòa bị cáo không nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng truy tố nhưng cũng đã thừa nhận là bị cáo cũng có tội. Do đó áp dụng quy định của điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta, tuy nhiên việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ tùy thuộc vào mức độ thành khẩn của từng bị cáo.

[6] Hình phạt bổ sung: Các bị cáo nghề nghiệp lao động tự do, thu nhập không ổn định; bị cáo Hoàng hiện nay vợ bị cáo đang phải đi chấp hành hình phạt tù, con bị cáo còn nhỏ nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo.

[7] Vật chứng: Số ma túy 0,023 loại Heroine còn lại sau giám định (thu giữ của bị cáo Đ); 0,052g loại Heroine còn lại sau giám định (thu giữ của bị cáo H) là vật thuộc Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

Số tiền 100.000 đồng là số tiền bị cáo H có được do bán ma túy mà có nên truy thu, tịch thu sung ngân sách nhà nước; 01 xe môtô nhãn hiệu Wave Alpha màu đỏ, biển kiểm soát 36L5-6654 bị cáo Đ dùng để cất giấu ma túy, 01 điện thoại nhãn hiệu Viettel màu đỏ; 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu đen các bị cáo dùng để giao dịch khi mua bán nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[8] Án phí: Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Trọng Đ; Điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lê Bá H; Khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trọng Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị cáo Lê Bá H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trọng Đ 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 11/8/2021.

Bị cáo Lê Bá H 07 (Bảy) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 11/8/2021.

Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,023 loại Heroine còn lại sau giám định (thu giữ của bị cáo Đ); 0,052g loại Heroine còn lại sau giám định (thu giữ của bị cáo H); truy thu, tịch thu số tiền 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng) của Lê Bá H sung vào ngân sách nhà nước; tịch thu 01 xe môtô nhãn hiệu Wave Alpha, biển kiểm soát 36L5-6654; 01 điện thoại nhãn hiệu Viettel màu đỏ; 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu đen sung vào ngân sách nhà nước. (Tất cả các vật chứng trên theo Biên bản giao nhận vật chứng số 13/BBGN ngày 29/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa).

Án phí: Buộc các bị cáo Nguyễn Trọng Đ, Lê Bá H mỗi bị cáo chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyn kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 79/2021/HS-ST

Số hiệu:79/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về