TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 78/2024/HS-ST NGÀY 28/02/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 87/2024/HSST, ngày 31 tháng 01 năm 2024; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2024/QĐXXST- HS, ngày 16 tháng 02 năm 2024, đối với bị cáo.
Họ và tên: Nguyễn Thị L (Tên gọi khác: Không có) - Sinh năm 1989; Nơi sinh: Tỉnh V Ph; Nơi cư trú: Thôn B S, xã Đ S, huyện L Th, tỉnh V P; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 03/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn K (đã chết) và bà Nguyễn Thị N; Chồng: Bùi Minh T; bị cáo có hai con, con lớn nhất sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giữ từ ngày 07/11/2023, sau đó bị áp dụng biện pháp tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 07/11/2023, Nguyễn Thị L một mình đi bộ từ phòng trọ ở tổ dân phố 06, phường Thanh Trường, thành phố Điện Biên Phủ đến khu vực công trình đang thi công tại Sân bay thuộc tổ 05, phường Thanh Trường, thành phố Điện Biên Phủ để tìm mua ma tuý. Tại đây L gặp một người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ hỏi mua được 01 gói có chứa 08 viên ma tuý được gói bằng mảnh giấy bạc máu vàng với giá là 300.000đồng, khi mua được gói ma tuý L cất giấu gói ma tuý vào trong áo lót bên phải đang mặc trên người rồi đi bộ về. Đến khoảng 15 giờ 45 phút cùng ngày, khi L đang đi bộ về khu vực tổ 6 phường Thanh Trường, thành phố Điện Biên Phủ thì bị tổ công tác Công an phường Thanh Bình phối hợp với đội điều tra tổng hợp Công an thành phố Điện Biên Phủ đang làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.
Vật chứng thu giữ gồm: 0,77 gam Methamphetaminne, 01 mảnh giấy bạc màu vàng.
Tại bản kết luận giám định số: 1577/KL-KTHS ngày 14/11/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu vật chứng ký hiệu M gửi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetaminne. Khối lượng vật chứng: 0,77 gam Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323, Mục IIC, Danh mục II, Nghị định 73/NĐ-CP ngày 15/5/2018, sau khi giám định hoàn lại 0,72 gam Methamphetamine.
Tại bản cáo trạng số: 24/CT-VKSTPĐBP ngày 30/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị L về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38/BLHS: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS, tịch thu tiêu hủy 0,72 gam Methamphethamine còn lại sau khi giám định, 01 mảnh giấy bạc màu vàng.
Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến tranh luận gì về phần luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với Biên bản bắt người quả tang, biên bản khám xét, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng chất ma tuý; Kết luận giám định, Kết luận điều tra, các bản cung, biên bản ghi lời khai, bản tự khai có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo, có đủ cơ sở khẳng định: Vào khoảng 15 giờ 45 phút ngày 07/11/2023, sau khi mua được ma tuý bị cáo đi bộ tại khu vực tổ dân phố 6, phường Thanh Trường, thành phố Điện Biên Phủ thì bị tổ công tác Công an phường Thanh Bình phối hợp với đội điều tra tổng hợp Công an thành phố Điện Biên Phủ bắt quả tang bị cáo đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,77 gam Methamphethamine, mục đích để bản thân sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt từ 01 năm đến 05 năm:
… Heroine, Cocaine, Methamphethamine,... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam" [2] Về tính chất, mức độ, động cơ hành vi phạm tội của bị cáo: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi cất giấu trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trên địa bàn thành phố Điện Biên Phủ. Mặt khác ma túy là hiểm họa của loài người, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật nên bị cáo đã đi mua ma túy cất giấu để phục vụ nhu cầu bản thân sử dụng, bị cáo đã coi thường pháp luật. Chính vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.
[3]. Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
- Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Về nhân thân của bị cáo, bị cáo chưa bị cơ quan nào xử phạt vi phạm hành chính và chưa bị Tòa án nào đưa ra xét xử. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.
[4]. Hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là có căn cứ, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Cần thiết phải áp dụng mức hình phạt tù phù hợp, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục, cho bị cáo có thời gian cai nghiện để trở thành công dân tốt, có ý thức tuân thủ pháp luật.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS thì ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng... Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản gì có giá trị và bị cáo đi chấp hành án. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo không có khả năng thi hành.
[6]. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,72 gam Methamphethamine còn lại sau khi giám định, 01 mảnh giấy bạc màu vàng theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS.
[7]. Các vấn đề khác:
Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, do không biết tên tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để làm rõ.
[8]. Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
[9]. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L 01 (Một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (07/11/2023).
2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo 3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tịch thu tiêu hủy 0,72 gam Methamphethamine còn lại sau khi giám định, 01 mảnh giấy bạc màu vàng.
(Vật chứng đã được Công an thành phố Điện Biên Phủ bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Điện Biên Phủ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/01/2024);
4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331; 333 Bộ luật Tố tụng hình sựBị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (28/02/2024).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 78/2024/HS-ST
Số hiệu: | 78/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về