Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 78/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 78/2021/HS-ST NGÀY 30/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 78/2021/TLST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T – sinh ngày 10 tháng 10 năm 1970 tại thị xã B, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: phố S, phường Đ, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa 6/10; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân H (đã chết) và con bà Nguyễn Thị K; bị cáo có vợ và 02 con; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 23/7/2021 đến ngày 29/7/2021 chuyển tạm giam.

Hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình theo Quyết định tạm giam số 41/2021/HSST-QĐTG ngày 18/10/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình (Có mặt).

- Những người làm chứng:

+ Ông Nguyễn Đức C, sinh năm: 1963; (vắng mặt)

+ Ông Ninh Xuân K, sinh năm: 1963; (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 20 phút ngày 23/7/2021 tổ công tác Công an thành phố T tiến hành tuần tra bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn phường N, khi đến khu vực tổ 21, phường N, thành phố T phát hiện một nam thanh niên đứng bên trái đường Ng (hướng từ đường QL 1A đi vào đường Ng), thấy có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy, tổ công tác đến yêu cầu kiểm tra giấy tờ tùy thân, nam thanh niên không xuất trình được giấy tờ gì, khai tên Nguyễn Văn T. Khi tổ công tác hỏi T có sử dụng ma túy không, T khai nhận bản thân là người sử dụng ma túy Heroine và tự lấy ở túi quần bên phải phía trước đang mặc ra 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng giao nộp và khai nhận bên trong bao thuốc có 02 gói ma túy vừa mua được của một người đàn ông không quen biết ở tổ 21, phường N, thành phố T, với giá 300.000 đồng để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác kiểm tra bao thuốc lá T giao nộp, xác định bao thuốc lá đã bóc một đầu, bên trong có 10 điếu thuốc lá Thăng Long và 01 túi nilon mầu trắng có kích thước (5,5 x 4,2) cm, bên trong túi nilon có 02 gói giấy nhỏ mầu trắng có dòng kẻ, đều có kích thước (2,3 x 1,3)cm, bên trong mỗi gói giấy màu trắng có dòng kẻ đều có chất bột dạng cục màu trắng đục, T khai nhận là ma túy Heroine của T mang theo sử dụng cho bản thân. Sau khi kiểm tra tổ công tác đã gói lại và niêm phong 02 gói giấy nhỏ màu trắng có dòng kẻ chứa chất bột dạng cục mầu trắng đục vào phong bì giấy dán kín mép, trên mép dán có chữ ký xác nhận của T, những người làm chứng và cán bộ Công an làm nhiệm vụ. Ngoài ra T tự lấy ở túi quần bên trái phía trước đang mặc giao nộp cho tổ công tác số tiền 110.000 đồng, sau đó tổ công tác đưa T cùng vật chứng về trụ sở Công an phường N tiến hành lập biên bản niêm phong vật chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định.

Tại trụ sở Công an phường N, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng đục có trong 02 gói giấy nhỏ màu trắng có dòng kẻ, thu giữ của Nguyễn Văn T, gói thứ nhất có khối lượng 0,10 gam ký hiệu M1, gói thứ hai có khối lượng 0,12 gam ký hiệu M2, gửi đi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 589/KLGĐ - PC09 - MT ngày 29/7/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:

Mẫu chất bột dạng cục mầu trắng đục gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,0859 gam (Không phẩy không nghìn tám trăm năm mươi chín) gam, M2 có khối lượng 0,1237 (Không phẩy một nghìn hai trăm ba mươi bảy) gam. Tổng khối lượng chất bột dạng cục màu trắng đục gửi giám định ký hiệu M1, M2 là 0,2096 (Không phẩy hai nghìn không trăm chín mươi sáu) gam. Mẫu chất bột dạng cục màu trắng đục gửi giám định ký hiệu M1, M2 đều là ma túy, loại Heroine.

Heroine là chất ma túy thuộc bảng Danh mục I, số thứ tự 9, Nghị định 73/2018/NĐ – CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Văn T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số 78/CT – VKS ngày 17 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T ra trước Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp để xét xử về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp tại phiên tòa sau khi phân tích đánh giá tính chất vụ án, xem xét hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự .

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 15 (Mười lăm) đến 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo là ngày 23/7/2021.

- Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì giấy dán kín mép niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi số: 589/KLGĐ-PC09-MT; mẫu vật hoàn trả gồm M1 = 0,0373 gam, M2 = 0,0860 gam đều là ma túy, loại Heroine; toàn bộ vỏ bao gói niêm phong;

+ 01 (một) phong bì giấy dán kín mép niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi vật chứng còn lại: 01 vỏ túi nilon màu trắng kích thước (5,5 x 4,2) cm; 02 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ có cùng kích thước (4 x 4) cm; 01 vỏ phong bì giấy đã cắt một đầu đã dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu;

+ 01 (một) bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, đã bóc một đầu, bên trong có 10 điếu thuốc lá Thăng Long;

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T số tiền 110.000 đồng Trong quá trình điều tra, ông Nguyễn Đức C trình bày: Khoảng 13 giờ 20 phút ngày 23/7/2021 ông cùng với ông Ninh Xuân K đi xe mô tô đến khu vực đường Ng, thuộc tổ 20, phường N, thành phố T thì thấy lực lượng Công an đi đến kiểm tra một người đàn ông đang đứng ở phía bên trái đường hướng QL 1A đi vào đường Ng, thấy vậy ông và ông K đến xem thì lực lượng Công an mời ông và ông K làm chứng việc kiểm tra người đàn ông, ông thấy người đàn ông chấp hành yêu cầu kiểm tra và khai báo tên là Nguyễn Văn T, sinh năm 1970, trú tại phố S, phường Đ, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa. T không xuất trình được giấy tờ gì và khai nhận là người sử dụng ma túy loại Heroine, đồng thời ông thấy T lấy ở bên trong túi quần phía trước bên phải đang mặc ra 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng giao nộp cho lực lượng Công an và khai nhận bên trong có 01 túi ma túy Heroine T mang theo để sử dụng. Tổ công tác tiến hành thu giữ và kiểm tra bao thuốc lá do T giao nộp , bao thuốc lá đã bóc một đầu, bên trong có 10 điếu thuốc lá Thăng Long và 01 túi nilon màu trắng, trong túi nilon có 02 gói giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong gói giấy màu trắng có dòng kẻ là chất bột dạng cục màu trắng đục rồi tiến hành niêm phong theo quy định của pháp luật. Sau đó tổ công tác đưa T và vật chứng về trụ sở Công an phường N tiến hành lập biên bản thu giữ niêm phong vật chứng và biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại cơ quan điều tra, lực lượng công an mở niêm phong cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng đục, kiểm tra dấu vết trên thân thể của Nguyễn Văn T.

Người làm chứng ông Ninh Xuân K cũng khai nhận đã được Công an mời chứng kiến việc Công an tiến hành kiểm tra, thu giữ, niêm phong gói ma túy của bị cáo, sau đó đưa bị cáo về trụ sở Công an phường N, thành phố T, tỉnh Ninh Bình lập biên bản bắt người phạm tội quả tang với nội dung sự việc đúng như bản cáo trạng đã nêu.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi bị truy tố như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt và nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án thấp nhất để yên tâm cải tạo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng đã thu giữ; Kết luận giám định số 589/KLGĐ - PC09 - MT ngày 29/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 13 giờ 20 phút ngày 23/7/2021, tại tổ 21, phường N, thành phố T, Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói ma túy có tổng khối lượng 0,2096 (không phẩy hai nghìn không trăm chín mươi sáu) gam là ma túy, loại Heroine, với mục đích để sử dụng, bị Công an thành phố T phát hiện bắt quả tang đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 “ Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a) ...;

c) Heroin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA. XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

Hành vi phạm tội của bị cáo mang tính chất nghiêm trọng, nó không những đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của chính bản thân bị cáo mà còn ảnh hưởng đến trật tự trị an trên địa bàn thành phố T, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân về tệ nạn xã hội nói chung và tệ nạn ma túy nói riêng. Mặt khác xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước đối với chất ma túy. Do đó cần phải xử lý nghiêm minh đối với bị cáo đồng thời góp phần phòng ngừa chung.

[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Văn T chưa có tiền án, tiền sự.

[4] Xét tính chất hành vi phạm tội, khối lượng và loại chất ma túy mà bị cáo tàng trữ, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ nghiêm để giáo dục cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng không nhằm mục đích kiếm lời. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Văn T.

[6] Về nguồn gốc ma túy, Nguyễn Văn T khai mua được của một người đàn ông, (không biết họ tên và địa chỉ) ở khu vực tổ 21, phường N, thành phố T, do vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T không có cơ sở để điều tra, xác minh, xử lý theo quy định của pháp luật

[7] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

Đối với 01 (một) phong bì giấy dán kín mép niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi số: 589/KLGĐ-PC09-MT; mẫu vật hoàn trả gồm M1 = 0,0373 gam, M2 = 0,0860 gam đều là ma túy, loại Heroine; toàn bộ vỏ bao gói niêm phong; 01 (một) phong bì giấy dán kín mép niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi vật chứng còn lại: 01 vỏ túi nilon màu trắng kích thước (5,5 x 4,2) cm; 02 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ có cùng kích thước (4 x 4) cm; 01 vỏ phong bì giấy đã cắt một đầu đã dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu; 01 (một) bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, đã bóc một đầu, bên trong có 10 điếu thuốc lá Thăng Long cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Đối với số tiền 110.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn T, qúa trình điều tra xác định là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, do đó cần trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T là phù hợp với điểm a, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên và Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[9] Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Căn cứ cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố:

Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo là ngày 23 tháng 7 năm 2021.

2/ Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì giấy dán kín mép niêm phong theo đúng thủ tục pháp luật còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi số: 589/KLGĐ-PC09-MT; vụ Nguyễn Văn T, sinh năm 1970, xảy ra ngày 23/7/2021 tại phường N, thành phố T, tỉnh Ninh Bình;

mẫu vật hoàn trả gồm M1 = 0,0373 gam, M2 = 0,0860 gam đều là ma túy, loại Heroine; toàn bộ vỏ bao gói niêm phong;

+ 01 (một) phong bì giấy dán kín mép niêm phong theo đúng thủ tục pháp luật còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi vật chứng còn lại: 01 vỏ túi nilon màu trắng kích thước (5,5 x 4,2) cm; 02 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ có cùng kích thước (4 x 4) cm; 01 vỏ phong bì giấy đã cắt một đầu đã dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu;

+ 01 (một) bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, đã bóc một đầu, bên trong có 10 điếu thuốc lá Thăng Long;

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T số tiền 110.000 đồng Những vật chứng trên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T theo giấy ủy nhiệm chi ngày 19 tháng 10 năm 2021 và biên bản giao nhận vật chứng ngày 21 tháng 10 năm 2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.

3/Về án phí:

Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 78/2021/HS-ST

Số hiệu:78/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tam Điệp - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về