TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 78/2020/HS-ST NGÀY 11/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 11 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 75/2020/TLST-HS, ngày 01 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2020/QĐXXST-HS, ngày 28 tháng 10 năm 2020, đối với bị cáo:
BVL, sinh ngày 09 tháng 5 năm 1988 tại Hải Phòng; ĐKHKTT và trú tại: Số nhà 73, đường A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông D và bà E; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 1625/HSPT ngày 28-10-2003 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao xử phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng về tội Cướp tài sản và Bản án số 110/2005/HSST ngày 03-8-2005 Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền xử phạt 36 tháng tù về tội Cướp tài sản, tổng hợp với 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo của Bản án số 1625/HSPT ngày 28-10-2003, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 54 tháng tù; bị tạm giữ từ ngày 25-6-2020, tạm giam từ ngày 30-6-2020; có mặt.
- Người chứng kiến: Ông NCK1 và ông NCK2; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 25-6-2020 BVL nhận được điện thoại của người bạn tên F (là bạn bè quen biết ngoài xã hội) nhờ mua hộ 350.000 đồng ma túy đá và mang đến khu vực cầu G, quận H cho F. F hứa sẽ cho BVL sử dụng ma túy cùng. BVL đồng ý và sau đó gọi điện thoại cho người bạn tên I hỏi mua 350.000 đồng ma túy đá và dặn I chia làm hai túi mang đến nhà cho BVL. Do không có tiền nên BVL nói với I khi nào lấy được tiền của F thì sẽ trả cho I. I đồng ý và điều khiển xe môtô nhãn hiệu Altila màu trắng (chưa rõ biểm kiểm soát) đến nhà BVL đưa hai túi nilon bên trong chứa ma túy, BVL nhận và cất vào túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi nhờ I chở ra Trung tâm thương mại J trên đường K rồi thuê xe ôm chở đến khu vực cầu G, quận H để đưa cho F. Khi đến khu vực cầu G thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt quả tang. Thu giữ tại túi quần phía trước bên phải BVL đang mặc 02 túi nilon có dán mép màu xanh bên trong có chứa ma túy đá, đưa BVL cùng tang vật về Công an phường Thượng Lý lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Tại bản Kết luận giám định số 401/KLGĐ-MT ngày 27-6-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng, kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,36 gam, là loại: Methamphetamine.
Vật chứng của vụ án gồm: Lượng ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư niêm phong số 401/2020/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng; 01 điện thoại di động Sony bị vỡ màn hình đã qua sử dụng; 01 bật lửa dạng khò và 01 ví giả da bên trong có số tiền 12.000 đồng chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng.
Tại phiên tòa BVL đã khai nhận hành vi cất giấu, tàng trữ chất ma túy là Methamphetamine có khối lượng 0,36 gam bị Công an quận Hồng Bàng kết hợp với Cán bộ Phòng phòng chống tội phạm ma túy - Bộ tư lệnh vùng 1 Cảnh sát biển bắt quả tang vào hồi 15 giờ 30 phút, ngày 25-6-2020 tại khu vực gầm cầu G, thuộc đường Vạn Kiếp, phường G, quận H như nội dung Cáo trạng đã truy tố.
Cáo trạng số: 66/CT-VKSHB, ngày 01-10-2020, của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng đã quyết định truy tố bị cáo BVL về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo BVL về tội danh và điều luật như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; tuyên phạt bị cáo BVL từ 24 đến 27 tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 25-6-2020.
Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng của vụ án, cụ thể:
Tịch thu tiêu hủy đối với lượng ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư số 401/2020/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng và 01 bật lửa dạng khò. Tịch thu sung quỹ Nhà nước đối với 01 điện thoại di động Sony bị vỡ màn hình đã qua sử dụng. Còn đối với 01 ví giả da màu nâu bên trong có số tiền 12.000 đồng là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.
Miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm Đối với người phụ nữ tên F đã gọi điện nhờ BVL mua ma túy hộ hiện chưa xác định được căn cước, lai lịch và địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng tiếp tục điều tra xác minh làm rõ xử lý sau.
Đối với I, sinh năm 1987, địa chỉ: Ngõ 213, tổ 12, L, C, Hải Phòng đã bán ma túy cho BVL hiện không có mặt tại địa phương, đi đâu, làm gì chính quyền địa phương không xác định được nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng tiếp tục điều tra xác minh làm rõ xử lý sau.
Nội dung lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ về hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hồng Bàng, Điều tra viên được phân công điều tra vụ án, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, Kiểm sát viên được phân công kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện, tuân thủ đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án đều hợp pháp.
Về tội danh và áp dụng hình phạt:
[2] Chứng cứ xác định bị cáo có tội: Tại phiên tòa, bị cáo BVL đã khai nhận về hành vi cất giấu trái phép lượng ma túy qua giám định là loại Methamphetamine có khối lượng 0,36 gam bị Công an quận Hồng Bàng kết hợp với cán bộ Phòng phòng chống tội phạm ma túy - Bộ tư lệnh vùng 1 Cảnh sát biển bắt quả tang vào hồi 15 giờ 30 phút, ngày 25-6-2020 tại khu vực gầm cầu G, thuộc đường Vạn Kiếp, phường G, quận H như nội dung Cáo trạng đã truy tố.
[3] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo BVL đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
[4] Do vậy Cáo trạng đã truy tố bị cáo BVL về tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, chính xác, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội, bản thân bị cáo đã nhiều lần bị kết án như đã nêu trong phần nhân thân của bị cáo ở trên nên lần phạm tội này cần phải được xử lý nghiêm, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.
[6] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[7] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[8] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Xét bị cáo là người không có việc làm và thu nhập ổn định và không xác định được bị cáo có tài sản riêng nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[9] Về xử lý vật chứng: Khi bắt giữ Cơ quan điều tra đã thu giữ của BVL lượng ma túy được niêm phong trong phong bì thư số 401/2020/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng; 01 bật lửa dạng khò; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sony bị vỡ màn hình đã qua sử dụng và 01 ví giả da bên trong có số tiền 12.000 đồng. Áp dụng quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý các vật chứng như sau:
[10] Đối với lượng ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư số 401/2020/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng và 01 bật lửa dạng khò. Đây là số ma túy mà bị cáo đã tàng trữ trái phép và đồ vật dùng để sử dụng trái phép chất ma túy, là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.
[11] Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sony bị vỡ màn hình đã qua sử dụng được bị cáo sử dụng vào việc liên lạc với I và F về việc thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
[12] Còn đối với 01 ví giả da và số tiền 12.000 đồng là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo,
[13] Đối với người phụ nữ tên F đã gọi điện nhờ BVL mua ma túy hộ hiện chưa xác định được căn cước, lai lịch và địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng tiếp tục điều tra xác minh làm rõ xử lý sau.
[14] Đối với I, sinh năm 1987, địa chỉ: Ngõ 213, tổ 12, L, C, Hải Phòng đã bán ma túy cho BVL hiện không có mặt tại địa phương, đi đâu, làm gì chính quyền địa phương không xác định được nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng tiếp tục điều tra xác minh làm rõ xử lý sau.
[15] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo BVL 22 (Hai mươi hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 25-6-2020.
Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư số 401/2020/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng và 01 bật lửa dạng khò.
- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sony màu đen bị vỡ màn hình có số IMEI 1: 358118088736465, IMEI 2: 358118080736473, kèm theo hai sim có số ICCI lần lượt là: 8984048000194519114 và 89840200010698230430 đã qua sử dụng, đã niêm phong trong phong bì.
- Trả lại bị cáo BVL 01 ví giả da và số tiền 12.000 đồng (Theo biên lai thu tiền số: AA/2010/7679, ngày 01-10-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng).
(Đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao nhận giữa Công an quận Hồng Bàng và Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng ngày 02-10-2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng).
Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo BVL phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng, án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 78/2020/HS-ST
Số hiệu: | 78/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về