Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 77/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ML, TỈNH SL

BẢN ÁN 77/2024/HS-ST NGÀY 25/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 25 tháng 4 năm 2024 tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh SL và tại điểm cầu thành phần nhà tạm giữ Công an huyện ML, xét xử sơ thẩm công khai trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 80/2024/TLST-HS ngày 10 tháng 4 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2024/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2024 đối với bị cáo:

LVT, sinh ngày 03/5/1979, tại CN, MS, SL; Nơi ĐKHKTT: Bản M, xã CN, huyện MS, tỉnh SL; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 4/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông LVH, sinh năm 1952 và con bà LTĐ, sinh năm 1968; có vợ là LTN, sinh năm 1982, có 03 con lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/12/2023; Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: LVD, sinh năm 2000, địa chỉ: Bản M, xã CN, huyện MS, tỉnh SL. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo LVT bị Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào hồi 17 giờ 30 phút ngày 26/12/2023, tại bản P, xã MC, huyện ML, tỉnh SL, Công an phát hiện và bắt quả tang LVT, sinh ngày 03/5/1979, ở Bản M, xã CN, huyện MS, tỉnh SL đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ do LVT tự giác lấy từ trong túi áo khoác bên phải đang mặc giao nộp: 01 gói giấy màu trắng bên trong có chứa cục bột màu trắng, LVT khai là Heroine để sử dụng;

01 chiếc xe moto nhãn hiệu HONDA loại xe thồ đi nương, không biển kiểm soát, xe qua sử dụng;

01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Iphone, màu trắng bạc, điện thoại cũ qua sử dụng;

Ngày 26/12/2023 cơ quan Công an đã thành lập hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định, kết quả:

Vật chứng thu giữ do LVT tự giác giao nộp: 01 gói giấy màu trắng bên trong có chứa cục bột màu trắng có khối lượng 0,50 gam, lấy 0,16 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu T1.

Cơ quan Công an ra quyết định trưng cầu giám định chất ma túy và loại ma túy.

Tại Kết luận giám định số: 165/KL-KTHS ngày 28/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh SL, kết luận: Mẫu ký hiệu T1 là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng giám định là 0,16 gam. Khối lượng ma túy thu giữ là 0,50 gam Heroine;

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo LVT không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Quá trình điều tra LVT khai nhận: Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 26/12/2023 LVT dùng điện thoại di động gọi điện cho người tên Nghĩa ở bản Si (không biết họ và địa chỉ ở đâu) để tìm mua ma túy, Nghĩa và LVT hẹn gặp ở MC, huyện ML, tỉnh SL. Sau đó LVT đi xe máy nhãn hiệu HONDA loại xe thồ đi nương, không biển số từ nhà đến bản P, xã MC, huyện ML, tỉnh SL, tại đây LVT và Nghĩa có gặp và mua của một người đàn ông không biết tên và địa chỉ 01 túi Heroine với giá 100.000, đồng cất giấu ở trong túi áo khoác bên phải, mục đích để sử dụng, thì bị Công an phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Về nguồn gốc ma túy LVT khai mua của một người đàn ông không biết tên, địa chỉ với số tiền 100.000, đồng. Không có căn cứ điều tra về người bán ma túy, không có chứng cứ nào khác để xác định lời khai của LVT.

Đối với người tên Nghĩa ở bản Si (không biết họ và địa chỉ ở xã nào) đã cùng LVT tìm mua ma túy, khi bị phát hiện đã bỏ chạy, hiện cơ quan điều tra vẫn tiếp tục điều tra, xác minh nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo LVT đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Bản cáo trạng số: 43/CT-VKS-ML ngày 09 tháng 4 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố bị cáo LVT về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố LVT phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt LVT từ 24 đến 30 tháng tù;

Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo do không có tài sản.

Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1, 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu huỷ: 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng khi bắt quả tang;

01 vỏ nilon màu trắng; 01 gói giấy màu trắng; 0,34 gam Heroine (đều được niêm phong).

Tịch thu sung nộp ngân sách Nhà Nước: 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Iphone, màu trắng bạc, điện thoại cũ qua sử dụng, do dùng liên lạc mua ma túy.

Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA loại xe thồ đi nương, không biển kiểm soát, xe qua sử dụng. Được xác định là tài sản của LVD, khi LVT mang đi mua ma túy, LVD không biết, cơ quan điều tra đã trả lại cho LVD, cần chấp nhận.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo LVT phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên Quyết định truy tố. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ML, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ML, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Bị cáo LVT thừa nhận: Hồi 17 giờ 30 phút ngày 26/12/2023, tại bản P, xã MC, huyện ML, tỉnh SL đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 01 túi Heroine có khối lượng 0,50 gam, mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Thông báo kết quả giám định.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: LVT đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không có tài sản nên không phạt Bổ sung - Phạt tiền.

Hội đồng xét xử xét thấy: Tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, cần có mức hình phạt nhằm giáo dục bị cáo.

Bị cáo có nhân thân không tốt là đối tượng liên quan đến hoạt động ma túy. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo thật thà khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3]. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1, 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu huỷ: 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng khi bắt quả tang;

01 vỏ nilon màu trắng; 01 gói giấy màu trắng; 0,34 gam Heroine (đều được niêm phong).

Tịch thu sung nộp ngân sách Nhà Nước: 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Iphone, màu trắng bạc, điện thoại cũ qua sử dụng, do dùng liên lạc mua ma túy.

Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA loại xe thồ đi nương, không biển kiểm soát, xe qua sử dụng. Được xác định là tài sản của LVD, khi LVT mang đi mua ma túy, LVD không biết, cơ quan điều tra đã trả lại cho LVD, cần chấp nhận.

Về nguồn gốc ma túy LVT khai mua của một người đàn ông không biết tên, địa chỉ với số tiền 100.000, đồng. Không có căn cứ điều tra về người bán ma túy, không có chứng cứ nào khác để xác định lời khai của LVT, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm về số ma túy.

Đối với người tên Nghĩa ở bản Si (không biết họ và địa chỉ ở xã nào) đã cùng LVT tìm mua ma túy, khi bị phát hiện đã bỏ chạy, hiện cơ quan điều tra vẫn tiếp tục điều tra, xác minh nếu có căn cứ sẽ xử lý sau, cần chấp nhận.

Do bị cáo không có đơn và tài liệu miễn án phí, đồng thời bị cáo có nguyện vọng được nộp án phí, do đó phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố LVT phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo LVT 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 26/12/2023.

Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1, 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu huỷ: 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng khi bắt quả tang; 01 vỏ nilon màu trắng; 01 gói giấy màu trắng; 0,34 (không phẩy ba mươi tư) gam Heroine (được niêm phong theo biên bản mở niêm phong cân tịnh vật chứng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 26/12/2023).

Tịch thu sung nộp ngân sách Nhà Nước: 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Iphone, màu trắng bạc, điện thoại cũ qua sử dụng (được niêm phong theo biên bản kiểm tra điện thoại ngày 26/12/2023).

Theo biên bản giao nhận vật chứng chfuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện ML, tỉnh SL.

Chấp nhận cơ quan Điều tra đã trả cho anh LVD: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA. loại xe thồ đi nương, xe cũ qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng máy bên trong.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo LVT phải chịu 200.000, đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 25/4/2024.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

112
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 77/2024/HS-ST

Số hiệu:77/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về