TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 77/2024/HS-ST NGÀY 28/02/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 81/2024/TLST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2024/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 02 năm 2024 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Lò Văn T; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1995 tại Điện Biên;
Nơi thường trú: Bản P, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên.
Nơi ở hiện tại: Tổ dân phố X, phường Th, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Khơ Mú; Giới tính: Nam; Tôn giáo:
Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Con ông: Lò Văn L và bà: Lò Thị L; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: không, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 03/10/2023 sau đó bị tạm giam cho đến nay. (Có mặt).
2. Họ và tên: Lò Văn U; Tên gọi khác: Không;
Sinh năm: 1991 tại Điện Biên;
Nơi cư trú: Bản K, xã P, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Khơ Mú; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Con ông: Lò Văn P và bà: Quàng Thị P; Bị cáo có vợ: Lò Thị L và 02 con (con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2023); Tiền án: không, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày ngày 04/10/2023 sau đó bị tạm giam cho đến nay. (Có mặt)
3. Họ và tên: Lường Văn H; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1991 tại Điện Biên;
Nơi cư trú: Bản K, xã P, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Khơ Mú; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Con ông: Lường Văn K và bà: Lường Thị M; Bị cáo có vợ: Lò Thị U và 02 con (con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2015); Tiền án: không, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 04/10/2023 sau đó bị tạm giam cho đến nay. (Có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Chị Lò Thị T - sinh năm 1993. Nơi cư trú: Bản N, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. (Vắng mặt)
2. Anh Lò Văn T – sinh năm 1987. Nơi cư trú: Bản C, xã P, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 21 giờ 30 phút ngày 03/10/2023, tổ công tác Công an phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ phối hợp với Đội Điều tra tổng hợp Công an thành phố Điện Biên Phủ làm nhiệm vụ tại khu vực Tổ dân phố X, phường Th phát hiện Lò Văn T đang đi bộ có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy. Sau khi được Tổ công tác tuyên truyền, vận động T khai nhận đang cất giấu ma túy và tự giác lấy từ trong lòng bàn tay phải ra 01 gói được gói ngoài bằng mảnh nilon màu trắng, bên trong có chứa các cục chất bột thể rắn, màu trắng đục. T khai đó là ma túy (Heroine) vừa mua của người đàn ông tên Q (không biết họ tên đầy đủ, địa chỉ) với giá 200.000 đồng bằng tiền của U và H góp để cùng nhau sử dụng.
Trên cơ sở lời khai của T và các vật chứng đã thu giữ cơ quan điều tra đã xác minh, điều tra có cơ sở để kết luận Lò Văn T cùng với Lò Văn U, Lường Văn H đã góp tiền để T đi mua ma túy về nhằm mục đích cùng nhau sử dụng.
Quá trình điều tra xác định: Khoảng 20 giờ ngày 03/10/2023 tại quán tạp hóa đối diện Tiểu đoàn cảnh sát cơ động thuộc xã Th, huyện Đ, Lò Văn U rủ Lò Văn T góp tiền để mua ma túy cùng sử dụng, T đồng ý nhưng nói mình không có tiền nhưng biết chỗ bán ma túy. T sử dụng điện thoại Iphone 6s của U gọi vào số điện thoại 0796.045.xxx của người đàn ông tên Q hỏi mua 200.000 đồng ma túy rồi hẹn Q giao ma túy gần khu vực Tiểu đoàn cảnh sát cơ động. U nhắn tin rủ Lò Văn H mua ma túy, H đồng ý và hẹn gặp ở quán tạp hóa. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày Lò Văn T điều khiển xe mô tô BKS 27B2 - 277.xx chở Lò Văn H từ lán trọ đến chỗ T và U. H vay của T 50.000 đồng và đưa cho U, U gộp với 150.000 đồng của mình đưa cho T để mua ma túy. Sau đó, U và T đi mua ma túy, H và T đi xe máy theo sau. Q gọi điện hẹn U sẽ giao ma túy ở khu vực gần Trung tâm giới thiệu việc làm tỉnh Điện Biên. U nói lại cho T và bảo T cầm điện thoại của U ra gặp Q. Đến nơi, T đưa cho Q 200.000 đồng, Q bảo T ra gốc cây để lấy gói Heroine được gói ngoài bằng mảnh nilon màu trắng, đựng trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long, Q đã để sẵn trước đó. T nhặt gói ma túy, vứt vỏ bao thuốc lá xuống suối rồi đi bộ về, sau đó thì bị phát hiện bắt quả tang.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói được gói bằng mảnh nilon màu trắng bên trong có chứa các cục chất bột khối lượng 0,25 gam; 01 điện thoại Iphone 7 plus kèm sim sxxx của Lò Văn U.
Tại bản kết luận giám định số 1482/KL-KTHS ngày 10/10/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Khối lượng vật chứng là 0,25 gam. Mẫu các cục chất bột màu trắng đục gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine. Hoàn lại đối tượng giám định có tổng khối lượng 0,18 gam có biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định kèm theo.
Tại bản cáo trạng số 17/CT-VKSTPĐBP ngày 19/01/2024 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đã truy tố các bị cáo về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên đề nghị Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX): Tuyên bố các bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, các Điều 17, 38, 58/BLHS: Xử phạt bị cáo Lò Văn U từ 15 đến 18 tháng tù; Xử phạt bị cáo Lò Văn T từ 14 đến 17 tháng tù; Xử phạt bị cáo Lường Văn H từ 14 đến 17 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS; điểm a, c khoản 2 và khoản 3 Điều 106/Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,18 gam Heroine còn lại sau giám định, 01 mảnh nilon màu trắng; Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s kèm sim. Trả lại cho bị cáo Thanh chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 plus kèm sim.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.
Tại phiên tòa các bị cáo, anh Lò Văn T không tranh luận gì về phần luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Các bị cáo không bào chữa gì cho hành vi của mình. Anh Lò Văn T có ý kiến cho bị cáo H số tiền 50.000 đồng đã vay.
Lời nói sau cùng: Các bị cáo đề nghị HĐXX xem xét, giảm nhẹ hình phạt để các bị cáo được sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo hoàn toàn phù hợp nhau, phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định chất ma túy niêm phong lại vật chứng, Kết luận giám định... Do đó, có đủ cơ sở khẳng định: Vào hồi 21 giờ 30 phút ngày 03/10/2023, tại tổ dân phố X, phường Th, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên Lò Văn T đã có hành vi cất giấu trái phép 0,25 gam Heroine với mục đích để cùng Lò Văn U và Lường Văn H sử dụng chung. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đa truy tố đôi vơi các bị cáo là có căn cứ pháp luật. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Các bị cáo đều thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
Đây là vụ án đồng phạm nhưng không có tính tổ chức. Giữa các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể. Các bị cáo đều là người thực hành. Bị cáo Uân là người khởi xướng, bỏ 150.000 đồng để góp tiền mua ma túy nên phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn các bị cáo khác. Ý thức của các bị cáo là mua ma túy về cùng nhau sử dụng nên cùng phải chịu trách nhiệm hình sự đối với toàn bộ khối lượng ma túy thu giữ.
[2]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52/BLHS.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà các bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.
Về nhân thân: Các bị cáo là đối tượng sử dụng chất ma túy. Chưa bị Tòa án nào xét xử, chưa bị cơ quan nào xử phạt vi phạm hành chính.
Hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với các bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo nên HĐXX chấp nhận.
[3]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS thì ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng...Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa cho thấy các bị cáo là người nghiện ma túy, đều không có tài sản gì có giá trị, nghề nghiệp tự do và thu nhập không ổn định. Vì vậy, HĐXX chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo vì các bị cáo không có khả năng thi hành. [4]. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng:
Đối với 0,25 gam Heroine, sau khi gửi toàn bộ để giám định còn lại 0,18 gam là vật nhà nước cấm tàng trữ; 01 mảnh nilon màu trắng là vật dùng gói ma túy không có giá trị, không sử dụng được nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS.
Đối với chiếc điện thoại di động Iphone 6s của bị cáo U: Đây là vật mang dấu vết tội phạm, các bị cáo dùng để liên lạc mua ma túy nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước theo quy định pháp luật.
Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 plus của bị cáo T:
Không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.
[5]. Các vấn đề khác:
Đối với đối tượng tên Q, bị cáo T khai đã bán ma túy, quá trình điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập nên hội đồng xét xử không xem xét xử lý.
Đối với số điện thoại 0796.045.xxx mà các bị cáo liên lạc đến để mua ma túy, quá trình điều tra xác định chủ thuê bao là Lò Thị T. Tuy nhiên, chị T không thừa nhận mình đăng ký và sử dụng số điện thoại này, cũng không quen biết ai tên Q. Cơ quan điều tra không có cơ sở xử lý đối với chị T. Căn cứ vào lời khai của các bị cáo và tài liệu khác HĐXX không có căn cứ xử lý đối với chị T.
Đối với anh Lò Văn T là người chở H đến gặp T, U và cho H vay 50.000 đồng. Quá trình điều tra xác định anh T không biết H vay tiền mình để mua ma túy, không biết việc các bị cáo bàn bạc, mua ma túy nên không xem xét xử lý đối với anh T. Tại phiên tòa anh T tự nguyện không yêu cầu và cho bị cáo H số tiền 50.000 đồng.
Đối với chị Phùng Thị T là người bán tạp hóa, không biết việc các bị cáo rủ nhau, góp tiền, mua ma túy nên không xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
[6]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo, người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đều hợp pháp.
[7]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Tuy nhiên, do các bị cáo đều là người dân tộc thiểu số, cư trú ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, có đơn đề nghị miễn án phí nên Hội đồng xét xử chấp nhận miễn án phí cho các bị cáo theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 .
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Lò Văn T, Lò Văn U, Lường Văn H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
2. Về hình phạt:
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Lò Văn U 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (04/10/2023).
Xử phạt bị cáo Lò Văn T 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (03/10/2023);
Xử phạt bị cáo Lường Văn H 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (04/10/2023);
3. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 và khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy 0,18 gam Heroine, 01 mảnh nilon màu trắng.
- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu I Phone 6S, màu trắng - vàng, số máy: MKQL2J/A, số seri: FK1RL9YKGRY7, số imei: 3557670786409xx bên trong có lắp 01 sim vật lý mạng Viettel số 0372.939.xxx, điện thoại đã qua sử dụng.
- Trả lại cho bị cáo Lò Văn T 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu I Phone 7 Plus, màu trắng - hồng, số máy MNFT2LL/A, số seri: C38SH0UBHFY0, số imei: 359176072231xx bên trong có lắp 01 sim vật lý mạng Viettel số 0345.955.xxx điện thoại đã qua sử dụng.
(Vật chứng đã được niêm phong và được Công an thành phố Điện Biên Phủ bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Điện Biên Phủ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/01/2024).
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.
5. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (28/02/2024). Anh Lò Văn T quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Lò Thị T có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 77/2024/HS-ST
Số hiệu: | 77/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về