Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 77/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 77/2021/HS-ST NGÀY 31/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 76/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số: 25/2021/HSST-QĐ ngày 02 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H, sinh năm 1993 tại tỉnh Đồng Tháp; Nơi cư trú: ấp T, xã B, huyện H, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn K (chết) và bà Nguyễn Thị M; Có vợ và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ: 14/5/2021; tạm giam: ngày 17/5/2021; hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hồng Ngự; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ, liên quan đến vụ án: Lê Hoàng C, sinh ngày 07/10/1996; Nơi cư trú: số XX tổ Y đường T, Khu A, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

Người làm chứng: Đặng Văn T, Phan Văn N, Nguyễn Toàn T1 đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 14/05/2021, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Đồng Tháp phối hợp với Công an huyện Hồng Ngự và Công an xã B tuần tra kiểm soát trên địa bàn xã B. Khi đến bến phà C thuộc ấp T, xã B phát hiện Nguyễn Văn H, đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 94 F1- 358.XX có chở bé Nguyễn Đăng K1 sinh năm 2016 và một gối nhồi bông hình con voi màu cam, thấy có biểu hiện nghi vấn nên lực lượng Công an tiến hành dừng phương tiện để kiểm tra. Khi dừng phương tiện thì H khai nhận bản thân có sử dụng ma túy và có người tên T1 ở Thành phố Hồ Chí Minh thuê vận chuyển 05 bịch ny lon ma túy để trong gối nhồi bông về xã B có người tên M1 nhận và được trả tiền công 2.000.000 đồng. Nên lực lượng Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ:

- 05 (năm) bịch nylon nắp kẹp, màu trắng bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng, được niêm phong trong phong bì, dán giấy niêm phong ký hiệu số A ngày 14/5/2021, trên giấy niêm phong có chữ ký và họ tên của Điều tra viên Nguyễn Hồng C1, người chứng kiến Đặng Văn T, Phan Văn N, người có đồ vật bị tạm giữ Nguyễn Văn H và hình dấu mộc màu đỏ của phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Đồng Tháp;

- 01 (một) khẩu trang có hình mèo Doremon;

- 01 (một) gối nhồi bông hình con voi màu cam;

- 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu đen, vỡ kính trước có gắn sim số 056X6149 đã qua sử dụng;

- 01 (một) xe mô tô hai bánh, biển số 94F1 -358.XX.

Kết luận giám định số 496/KL-KTHS, ngày 17/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp, kết luận: Tinh thể rắn chứa trong 5 bịch nylon màu trắng dạng nắp kẹp một đầu hàn kín, được niêm phong trong phong bì ghi ký hiệu A nêu trên gửi đi giám định đều là chất ma túy, có tổng khối lượng 49,529 gam, loại Methamphetamine (số thứ tự 323 thuộc Danh mục II, Nghị định số 73/2018/ND-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ).

Hoàn trả đối tượng gửi giám định: Mẫu tinh thể rắn còn lại sau giám định trong phong bì ký hiệu A có tổng khối lượng 48,260 gam. Tất cả mẫu vật nêu trên đã được niêm phong trả cho Cơ quan trưng cầu khi nhận Kết luận giám định.

Phiếu trả lời kết quả về việc xác định tình trạng nghiện ma túy số 280/BX ngày 14/5/2021 của Bệnh xá Công an tỉnh Đồng Tháp xác định Nguyễn Văn H có nghiện ma túy loại Methamphetamine với kết quả test nhanh dương tính.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn H khai nhận số ma túy bị công an bắt quả tang là H mua của người thanh niên tên T1 (không rõ họ chữ lót) ở đường Q, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh với số tiền 15.000.000 đồng. Vào ngày 13/5/2021, H lấy khẩu trang có hình mèo Doremon quấn lại cất giấu ma túy trên vào bên trong gối nhồi bông hình con voi màu cam để trên xe mô tô vận chuyển về nhà ở ấp P, xã B huyện H, tỉnh Đồng Tháp (do H đi đường tắt Thành phố Hồ Chí Minh về tỉnh Long An qua huyện T về thành phố H nên qua phà C về nhà) để sử dụng. Lời khai H phù hợp với lời khai của người làm chứng, cùng các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Ngoài ra, H thừa nhận lúc bắt quả tang khai nhận không đúng cho rằng là số ma túy trên vận chuyển thuê cho T1 để giao cho người tên M1 nhà ở xã B để nhận tiền công là do sợ nhận ma túy của H sẽ bị tội nặng nên khai báo không đúng.

Tại Cáo trạng số 72/CT-VKSHN ngày 04/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phần luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Căn cứ lời khai bị cáo, lời khai của những người làm chứng, cùng các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ kết luận số ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 49,529 gam loại Methamphetamine là của Nguyễn Văn H tàng trữ để sử dụng. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là thành khẩn khai báo; Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

Kiểm sát viên đề nghị: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 11 đến 12 năm tù. Về trách nhiệm dân sự: Không phát sinh nên không đề cập đến.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy: 05 (năm) bịch nylon dạng nắp kẹp chứa tinh thể rắn màu trắng, qua giám định những tinh thể rắn màu trắng bên trong 05 bịch nylon đều là chất ma túy có tổng khối lượng là 49,529 gam , sau giám định khối lượng ma túy còn lại là 48,260 gam, được niêm phong trong phong bì, ghi “Niêm phong số 523, ngày 14/5/2021, có đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp” và các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Văn E, Võ Thị Thùy T2, Nguyễn Thống N1 và Nguyễn Văn H; 01 (một) khẩu trang có hình mèo doremon; 01 (một) gối nhồi bông hình con voi màu cam. Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen, vỡ kính trước, có gắn sim số 056X6149, do sử dụng vào việc phạm tội, nên đề nghị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước. Đối với 01 (một) xe mô tô biển số 94F1- 358.XX (đã qua sử dụng) là của Lê Hoàng C cho H mượn không biết việc H thực hiện hành vi phạm tội, nên đề nghị trả lại cho Lê Hoàng C.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thống nhất với cáo trạng truy tố, xin Hội đồng xét xử xem xét, cho bị cáo giảm nhẹ hình phạt để sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của người làm chứng và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ kết luận số ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 49,529 gam là của Nguyễn Văn H tàng trữ để sử dụng. Do đó, đã đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự, như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

..............................................................

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:

..............................................................

b) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;

..............................................................

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[4] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận biết được sử dụng ma túy không có tác dụng cho con người, bị cáo hoàn toàn nhận thức được ma túy là chất độc hại, Nhà nước nghiêm cấm mọi hoạt động sản xuất, mua bán, tàng trữ…. trái phép chất ma túy. Nhưng chỉ vì muốn thỏa mãn cơn nghiện bị cáo đã tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Do đó, cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc, cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và có tác dụng phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải; bị cáo thuộc thành phần nhân dân lao động, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Do đó, áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[7] Đối với Nguyễn Toàn T1, theo lời khai của H là người bán ma túy giao dịch qua điện thoại Cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra điện thoại của H xác định nhật ký cuộc gọi không có, tin nhắn không có nội dung liên quan, danh bạ điện thoại có lưu tên “a T1” số điện thoại 085X4345 trên cơ sở đó Cơ quan điều tra yều cầu Tổng Công ty viễn thông Vinaphone xác định tổ chức, cá nhân nào đăng ký sử dụng thuê bao trên, ngày 11/6/2021 Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam có văn bản số 3093 xác định số thuê bao nói trên khách hàng sử dụng là Nguyễn Toàn T1, sinh ngày 11/10/1986, địa chỉ số xx - Q, phường X, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. Do tình hình dịch bệnh covid 19 diễn biến phức tạp không làm việc và không trích xuất bị cáo đi đối chất được nên Cơ quan điều tra Công an huyện H ủy thác điều tra đến Công an quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành mời làm việc T1 không thừa nhận quen biết với H và không bán ma túy cho H ngoài lời khai H thì không có chứng cứ nào khác nên không đủ xử lý đối với T1. Do đó khi nào làm rõ được sẽ xử lý sau.

Đối với lời khai H lúc bắt quả tang khai vận chuyển ma túy giao cho người tên Mười nhưng không xác định lai lịch cụ thể nên cơ quan điều tra không làm việc được khi nào làm rõ đủ cơ sở xử lý theo quy định.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Không phát sinh, nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

[9] Về xử lý vật chứng: Đề nghị Kiểm sát viên là phù hợp nên chấp nhận.

[10] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có điều kiện kinh tế nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[10] Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để buộc bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

3. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 11 (mười một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 14/5/2021.

4. Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

4.1. Tịch thu tiêu hủy: 05 (năm) bịch nylon dạng nắp kẹp chứa tinh thể rắn màu trắng, qua giám định những tinh thể rắn màu trằng bên trong 05 bịch nylon đều là chất ma túy có tổng khối lượng là 49,529 gam, sau giám định khối lượng ma túy còn lại là 48,260 gam, được niêm phong trong phong bì, ghi “Niêm phong số 523, ngày 14/5/2021, có đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp” và các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Văn E, Võ Thị Thùy T2, Nguyễn Thống N1 và Nguyễn Văn H; 01 (một) khẩu trang có hình mèo Doremon;

01 (một) gối nhồi bông hình con voi màu cam.

4.2. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen, vỡ kính trước, có gắn sim số 056X6149.

4.3. Trả lại cho Lê Hoàng C: 01 (một) xe mô tô biển số 94F1-358.XX (đã qua sử dụng).

Vật chứng hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện Hồng Ngự đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 05 tháng 11 năm 2021.

5. Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (31/12/2021). Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án được thực hiện theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

59
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 77/2021/HS-ST

Số hiệu:77/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Ngự - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về