Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 75/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 75/2024/HS-ST NGÀY 29/02/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện T, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 72/2024/HSST, ngày 01 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2024/QĐXXST-HS ngày 15/02/2024, đối với bị cáo:

Bào Văn T, sinh năm 1997.

Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Bản Nà Roác 2, xã Bạch Đằng, huyện A, tỉnh C; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Họ và tên bố: Bào Văn D, sinh năm 1973; Họ và tên mẹ: Lâm Thị T, sinh năm 1974; Gia đình có 2 chị em, bị cáo là con thứ hai; Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Chưa có.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/12/2023 đến nay. Hiện bị cáo đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 25/12/2023 tại khu vực đối diện cây xăng D thuộc địa phận thôn D, xã Đại Đồng, huyện T, tỉnh B, Công an xã Đại Đồng phối hợp với quần chúng nhân dân kiểm tra bắt quả tang Bào Văn T có hành vi tàng trữ phép ma túy Heroin để sử dụng.

Vật chứng thu giữ:

- Thu trong túi đeo chéo bằng da màu đen của Bào Văn T 07 gói, trong đó 05 gói giấy được bọc ngoài bằng túi nilon màu đen, 02 gói giấy được bọc ngoài bằng túi nilon màu xanh, mở ra bên trong chứa chất bột màu trắng.

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Skygo màu đen, BKS: 36M8 - xxxx;

- 01 chứng minh nhân dân số 08505xxxx mang tên Bào Văn T;

- 01 giấy phép lái xe A1 số 04018700xxxx mang tên Bào Văn T;

- 01 giấy đăng kí xe mô số 013xxxx;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 6300 màu vàng kèm sim số.

Tại bản kết luận giám định số 161/KL-KTHS, ngày 27/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Chất bột bên trong bì thư gửi giám định có khối lượng là 0,5914gam; Là ma tuý; Loại ma tuý: Heroine.

Tại Cáo trạng số 12/CT-VKSTD ngày 31/01/2024 của VKSND huyện T, tỉnh B truy tố Bào Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà:

Bị cáo nhận tội và khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên trước khi bị bắt quả tang 2-3 ngày, T đi đến khu vực phường Đình Bảng, thành phố Từ Sơn mua của một người đàn ông không quen biết được 03 gói ma túy với giá 700.000 đồng. Sau đó, T sử dụng một phần ma túy ở ven đường (T không nhớ địa điểm cụ thể) rồi đi về phòng trọ tại thôn Rích Gạo, phường P, thành phố Từ Sơn. Tại đây, T chia số ma túy thành 07 gói nhỏ (gồm 05 gói giấy được bọc ngoài bằng túi nilon màu đen và 02 gói giấy được bọc ngoài bằng túi nilon màu xanh) rồi cất vào túi đeo chéo màu đen để sử dụng dần. Khoảng 16 giờ 10 ngày 25/12/2023, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Skygo màu đen, BKS : 36M8 - xxxx đi đến xã Đại Đồng, huyện T để giải quyết việc cá nhân, khi đi T có mang theo chiếc túi đeo chéo trước ngực. Đến khoảng 16 giờ 30 phút, khi đi đến khu vực đối diện cây xăng thuộc địa phận thôn D, xã Đại Đồng, huyện T, tỉnh B, T đỗ xe trên vỉa hè thì bị lực lượng Công an xã Đại Đồng phối hợp với quần chúng nhân dân kiểm tra, bắt quả tang T đang tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Sau khi phân tích tính chất của vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử phạt: Bào Văn T từ 20 tháng đến 22 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/12/2023.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy số ma tuý còn lại sau giám định được niêm phong dán kín bên ngoài có đóng dấu niêm phong và chữ ký Giám định viên phòng PC09 - Công an tỉnh B; 01 túi đeo chéo bằng da màu đen.

Bị cáo tự nguyện nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Skygo màu đen, BKS: 36M8 - xxxx, số khung: H8HY61021160, số máy: FMH360241160; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 6300 kèm sim số và 01 giấy đăng kí xe mô số 013xxxx.

Trả lại cho bị cáo: 01 chứng minh nhân dân số 08505xxxx mang tên Bào Văn T;

01 giấy phép lái xe A1 số 04018700xxxx mang tên Bào Văn T.

Bị cáo không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo tại phiên toà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an huyện T, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện T, đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có khiếu nại gì. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng trên đều hợp pháp.

Bị cáo là người dân tộc thiểu số, cư trú tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, thuộc diện được trợ giúp pháp lý, bị cáo đã được nghe phổ biến về quyền yêu cầu trợ giúp pháp lý, tuy nhiên bị cáo nhận thấy hành vi phạm tội của mình đã rõ ràng nên từ chối trợ giúp pháp lý và tự bào chữa tại phiên toà.

[2] Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn nhận tội, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với kết quả tranh luận tại phiên tòa, đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 25 tháng 12 năm 2023 tại khu vực đối diện cây xăng D thuộc địa phận thôn D, xã Đại Đồng, huyện T, tỉnh B, Bào Văn T đã có hành vi tàng trữ phép 0,5914 gam ma túy Heroin để sử dụng. Do vậy, có đủ căn cứ xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Cáo trạng truy tố là có căn cứ pháp luật, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, xâm phạm sức khỏe và sự phát triển giống nòi của dân tộc, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, làm ảnh hưởng đến các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, ma túy cũng là nguyên nhân của các tội phạm hình sự khác. Hành vi của bị cáo cần được xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do vậy cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng:

Đối với số ma tuý còn lại sau giám định được niêm phong dán kín bên ngoài có đóng dấu niêm phong và chữ ký Giám định viên phòng PC09 - Công an tỉnh B và 01 túi đeo chéo bằng da màu đen cần tịch thu tiêu huỷ.

Bị cáo tự nguyện sung vào ngân sách nhà nước: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Skygo màu đen, BKS: 36M8 – xxxx, số khung: H8HY61021160, số máy: FMH360241160; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 6300 kèm sim số và 01 giấy đăng kí xe mô số 013xxxx cần chấp nhận.

Đối với 01 chứng minh nhân dân số 08505xxxx mang tên Bào Văn T; 01 giấy phép lái xe A1 số 04018700xxxx mang tên Bào Văn T cần trả lại cho bị cáo.

Liên quan trong vụ án:

Đối với nam thanh niên bán ma túy cho T tại phường Đình Bảng, thành phố Từ Sơn, T khai không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể. Do vậy chưa đủ căn cứ để làm rõ, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là đúng pháp luật.

Qua kiểm tra, T dương tính với ma túy. T khai sử dụng trước đó 2 đến 3 ngày, tuy nhiên không nhớ rõ đã sử dụng ở vị trí, thời gian, không gian nên chưa đủ căn cứ để xử lý, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là đúng pháp luật.

[6] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên không phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bào Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt: Bào Văn T 20 (hai mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/12/2023. Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày xét xử sơ thẩm (29/02/2024) theo Quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử để đảm bảo thi hành án.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01(một) phong bì thư dán kín, bên ngoài phong bì thư tại phần người nhận có ghi: “ Cơ quan CSĐT Công an huyện T. Mẫu vật còn lại sau giám định trong vụ Bào Văn T, sinh năm 1997 ở Bạch Đằng, Hoà An, C tàng trữ trái phép chất ma tuý”, trên mép của phong bì thư có chữ ký của những người tham gia niêm phong, có dấu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh B và 01 túi đeo chéo bằng da màu đen.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Skygo màu đen, BKS: 36M8 - xxxx, số khung: H8HY61021160, số máy: FMH360241160; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 6300 kèm sim số và 01 giấy đăng kí xe mô số 013xxxx.

Trả lại cho bị cáo: 01 chứng minh nhân dân số 08505xxxx mang tên Bào Văn T và 01 giấy phép lái xe A1 số 04018700xxxx mang tên Bào Văn T.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 75/2024/HS-ST

Số hiệu:75/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:29/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về