Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 75/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 75/2023/HS-ST NGÀY 21/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 21 tháng 12 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 62/2023/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 67/2023/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

Sồng Thị Ch (Tên gọi khác: Sồng Thị H), sinh năm 1970, tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi thường trú: Bản Hin P, xã Ch, huyện M, tỉnh Sơn La, nơi ở hiện nay: Xóm V, xã B, huyện Mu, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 0/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Sồng A Gi, sinh năm 1943 và bà Giàng Thị D, sinh năm 1953, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình có 04 chị em; bị cáo có chồng là Mùa A T (hiện đã ly hôn) có 04 con, con lớn sinh năm 1995, nhỏ sinh năm 2003.

Tiền án: Năm 2017 bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 21 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Bản án số: 112/2017/HSST ngày 10/5/2017 và năm 2019 bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 36 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo Bản án số: 95/2019/HSST ngày 30/5/2019 (Ch được xóa án tích); tiền sự:

Không; nhân thân: Bị cáo có sử dụng, nghiện chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27/6/2023, chuyển tạm giam từ ngày 06/7/2023 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

- Anh Đinh Công Th, sinh năm 1976; nơi cư trú: Xóm Vanh, xã B, huyện M, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

- Anh Hà Văn H, sinh năm 1995; nơi cư trú: Xóm P, xã C, huyện M, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 00 phút, ngày 27/6/2023 tại xóm Vanh, xã B, huyện M, tỉnh Hòa Bình, Công an xã B chủ trì phối hợp với Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế, ma túy Công an huyện M phát hiện, bắt quả tang đối tượng Sồng Thị Ch, sinh năm 1970, chỗ ở hiện tại: Xóm V, xã B, huyện M, tỉnh Hòa Bình đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm 01 gói nilon màu xanh bên trong có chứa chất bột dạng cục màu hồng. Ch khai nhận đó là ma túy của Ch tàng trữ mục đích để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại cơ quan Điều tra Công an huyện M, Sồng Thị Ch khai nhận về nguồn gốc số ma túy như sau:

Sồng Thị Ch sống chung như vợ chồng với anh Đinh Công Th, sinh năm 1976, trú tại xóm Vanh, xã B, huyện M, tỉnh Hòa Bình, tại nhà của anh Th. Ngày 26/6/2023, Sồng Thị Ch dùng xe mô tô của anh Đinh Công Th đi đến khu vực xã Hang Kia, huyện M để tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Trên đường dân sinh tại khu vực xã Hang Kia, Ch gặp và nói chuyện với một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết. Quá trình nói chuyện biết người này có bán ma túy nên Ch hỏi mua được một gói nilon màu xanh bên trong có chứa khoảng 80 viên nén ma túy tổng hợp với số tiền 1.000.000 đồng, sau đó Ch cất giấu ma túy trong người và về nhà. Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 27/6/2023 tại nhà anh Đinh Công Th lực lượng Công an kiểm tra lưu trú, tại thời điểm này Ch đang cất giấu ma túy trong người, sợ bị phát hiện Sồng Thị Ch đã cầm gói ma túy chạy từ bếp vào nhà vệ sinh ném vào bồn cầu và xả nước nhưng gói ma túy không trôi được, Ch đã nhặt lại gói ma túy ném qua khe hở của nhà vệ sinh ra vườn thì bị tổ công tác phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Tại Kết luận giám định số: 286/KL-KTHS ngày 05/7/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: Chất bột dạng cục màu hồng trong phong bì niêm phong có khối lượng 8,48 gam là ma túy, loại Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số: 65/CT-VKS ngày 14 tháng 11 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố Sồng Thị Ch về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm g, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M luận tội giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh, hình phạt: Đề nghị tuyên bố bị cáo Sồng Thị Ch phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ điểm g, o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt Sồng Thị Ch từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 27/6/2023.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng sử dụng và nghiện ma túy, không có điều kiện thi hành nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tuyên tịch thu toàn bộ số ma túy thu được, sau khi giám định còn lại đã hoàn trả, để tiêu hủy.

Về vấn đề khác: Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Ch, kết quả điều tra không xác định được là ai nên không có căn cứ xử lý.

Đề nghị áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên án phí và quyền kháng cáo đối với bị cáo.

Ý kiến của người làm chứng anh Đinh Công Th, tóm tắt: Trưa ngày 27/6/2023, tại nhà của Thúy, có Đinh Công Th và Sồng Thị Ch đang trong nhà bếp thì có Cơ quan công an vào nhà để kiểm tra lưu trú, sau đó cơ quan Công an phát hiện Ch ném 01 gói nilon màu xanh bên trong có ma túy và bắt quả tang.

Ý kiến của người làm chứng anh Hà Văn H vắng mặt tại phiên tòa, tại cơ quan điều tra đã có ý kiến, tóm tắt: Trưa ngày 27/6/2023, Hoàng đến chơi nhà của Th, lúc đó có anh Th, Ch ở nhà. Một lúc sau thấy Cơ quan công an vào kiểm tra lưu trú và phát hiện Ch ném 01 gói nilon màu xanh bên trong có ma túy và Công an tiến hành thu giữ và bắt quả tang Ch về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Ý kiến của bị cáo: Bị cáo đã nhận được các văn bản tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án, quá trình điều tra, truy tố xét xử bị cáo đã được phổ biến quyền và nghĩa vụ, không bị ép cung, mớm cung, bị cáo đồng ý với nội dung Cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử không thắc mắc gì, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, bị cáo không thuê Luật sư hoặc nhờ trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho mình, do nghiện ma túy, tàng trữ để sử dụng, ngoài ra không nhằm bán cho ai, không có mục đích gì khác và đã thành khẩn khai báo mong được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Những chứng cứ xác định có tội: Bị cáo bị bắt, bị lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại cơ quan điều tra và phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu được, kết luận giám định cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đã có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 10 giờ ngày 27/6/2023, tại xóm Vanh, xã B, huyện M, tỉnh Hòa Bình, Sồng Thị Ch bị bắt quả tang khi đang tàng trữ trái phép 8,48 gam là ma túy loại Methamphetamine với mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân, không có mục đích gì khác. Năm 2017 Sồng Thị Ch bị TAND huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 21 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Bản án số: 112/2017/HSST ngày 10/5/2017, Ch đã chấp hành xong án phạt tù ngày 17/11/2018. Tuy nhiên đến năm 2019 Sồng Thị Ch được xóa án tích lại tiếp tục bị TAND huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 36 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo Bản án số: 95/2019/HSST ngày 30/5/2019, bản án này đã xác định tái phạm C được xóa án tích lần này lại phạm tội mới, do vậy Sồng Thị Ch thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự. Như vậy có đủ căn cứ xác định bị cáo Sồng Thị Ch phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm g, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[2] Chứng cứ xác định không có tội: Không có.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, biết rõ tác hại của ma tuý đối với bản thân, gia đình và xã hội, trong khi Nhà nước và toàn thể xã hội đang tìm mọi biện pháp tiến tới loại trừ tệ nạn ma tuý ra khỏi cộng đồng bởi tác hại rất lớn của nó. Bản thân bị cáo đã từng xét xử nhiều lần về tội ma túy nhưng bị cáo không tiến bộ mà trái lại cố tình phạm tội, tàng trữ trái phép chất ma tuý số lượng 80 viên có khối lượng 8,48 gam để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách quản lý Nhà nước về chất ma túy.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan Điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Căn cứ quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội, nguyên nhân, hậu quả của hành vi phạm tội, tiền án, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo nêu trên, xét cần xử phạt tù có thời hạn với mức án nghiêm khắc, nhưng phù hợp đối với bị cáo, nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[6] Về tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, tạm giam sau khi tuyên án và về các vấn đề khác mà đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đã có ý kiến đề nghị nêu trên. Xét thấy có căn cứ phù hợp quy định pháp luật cần xử lý, giải quyết theo hướng đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát.

[7] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[8] Về án phí: Bị cáo Sồng Thị Ch phải nộp án phí theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh, hình phạt:

Áp dụng điểm g, o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 38 Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Sồng Thị Ch (Tên gọi khác: Sồng Thị H) phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Xử phạt bị cáo Sồng Thị Ch 06 (sáu) năm, 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 27/6/2023.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số chất ma túy sau khi giám định còn lại đã hoàn trả, được niêm phong trong 01 phong bì.

(Vật chứng nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tình trạng, đặc điểm vật chứng được ghi trong Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số: 13/THA ngày 06/12/2023 giữa bên giao Công an huyện M, bên nhận Chi cục Thi hành án dân sự huyện M).

3. Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Bị cáo Sồng Thị Ch phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Áp dụng Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo Bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình để xét xử phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 75/2023/HS-ST

Số hiệu:75/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Châu - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về