Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 74/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 74/2023/HS-ST NGÀY 15/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, Tòa án nhân dân huyện Đ mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 108/2023/TLST - HS ngày 01/11/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2023/QĐXXST - HS ngày 03/11/2023 đối với bị cáo:

Lã Quý Đ, sinh ngày 23/8/1975. Tại thôn T, xã Đ, huyện Đ, tỉnh T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; CCCD số 03407501xxxx; Nơi cư trú: Thôn T, xã Đ, huyện Đ, tỉnh T; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Lã Quý Đ, sinh năm 1942(Đã chết); con bà Bùi Thị N, sinh năm 1945, Vợ Nguyễn Thị N, sinh năm 1978; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2003.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án số 26 ngày 11/9/2013 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh T xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/4/2015, nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm ngày 05/11/2013;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27/7/2023 đến ngày 05/8/2023 chuyển tạm giam cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Đ tỉnh T.

Người chứng kiến:

1. Ông Trần Duy T, sinh năm 1956;

2. Ông Nguyễn Kiên C, sinh năm 1977;

Đều cùng địa chỉ: Thôn H, xã L, huyện Đ, tỉnh T.

(Có mặt bị cáo,vắng mặt ông T, ông C)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến vụ án tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lã Quý Đ là người nghiện ma túy. Nên khoảng 09 giờ ngày 27/7/2023, Đ đi xe ôm của người không biết tên, tuổi địa chỉ từ nhà đến khu vực cầu Đ thuộc xã L, huyện Đ mục đích mua ma túy về sử dụng; khi đến nơi, Đ gặp và mua của một người đàn ông khoảng 45 tuổi không biết tên và địa chỉ đứng ở ven đường 01 gói nhỏ bên ngoài gói bằng giấy kim loại màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục là ma túy loại Heroine có khối lượng 0,1386 gamvới giá 200.000 đồng. Đ cầm gói ma túy tại lòng bàn tay trái rồi đi bộ trên trục đường thôn H, xã L, huyện Đ thì gặp tổ công tác Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ và Công an xã L đang làm nhiệm vụ trên trục đường thôn H, xã L. Do nghi ngờ Đ có liên quan đến ma túy đã yêu cầu Đ dừng lại để kiểm tra. Tổ công tác đã mời ông Nguyễn Kiên C, sinh năm 1977 và ông Trần Duy T, sinh năm 1956, đều trú tại thôn H, xã L, huyện Đ, tỉnh T chứng kiến sự việc. Trước sự chứng kiến của mọi người, sau khi được nghe giải thích quyền và nghĩa vụ, Đ đã tự nguyện đưa ra từ lòng bàn tay trái giao nộp 01 gói nhỏ bên ngoài gói bằng giấy kim loại màu trằng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục là ma túy loại Heroinecho lực lượng Công an. Tiến hành kiểm tra người Đ không thu giữ gì khác. Cơ quan Công an niêm phong vật chứng vào phong bì thư, mời người chứng kiến và đưa Đồng về Uỷ ban nhân dân xã L huyện Đ lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng.

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Đ nhưng không thu giữ đồ vật, tài sản gì.

Tại Kết luận giám định số 1152/KL-KTHSngày 31/7/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: “Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại Heroin (Heroine) có khối lượng 0,1386 gam (Không phẩy một nghìn ba trăm tám mươi sáu gam).

Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo; Cáo trạng số 107/CT-VKSĐH ngày 31/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tốbị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ phân tích nguyên nhân, điều kiện phạm tội, đánh giá chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, hậu quả, nhân thân của bị cáo, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trên cơ sở đó đề nghị Hội đồng xét xử kết tội bị cáo theo toàn bộ cáo trạng đã truy tố, đồng thời áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Đ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; phạt bị cáo mức hình phạt từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng và án phí.

Tại phiên tòa: Bị cáo Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo xác định Cáo trạng truy tố bị cáo về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng pháp luật vì vậy không trình bày lời bào chữa, cũng không trình bày ý kiến tranh luận về tội danh, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, điều luật áp dụng, mức hình phạt do Kiểm sát viên đề nghị.

Khi nói lời sau cùng: Bị cáo biết việc tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo được sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[ 1] Về hành vi quyết định tố tụng:

Các tài liệu chứng cứ do Điều tra viên, Kiểm sát viên thu thập trong quá trình điều tra vụ án đã tuân thủ các quy định của pháp luật. Đó là các tài liệu hợp pháp chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo. Căn cứ vào các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[ 2] Về căn cứ xác định có tội, căn cứ xác định vô tội:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đúng như lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với Cáo trạng số 107/CT-VKSĐH ngày 31/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố.

Lời khai nhận tội của bị cáo còn phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang do Công an huyện Đ lập hồi 12 giờ 00 phút 27/7/2023 tại trụsở Ủy ban nhân dân xã L, huyện Đ, phù hợp với Kết luận giám định số 1152/KL-KTHS ngày 31/7/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T, phù hợp với lời khai của người chứng kiến là ông Ông Trần Duy T và ông Nguyễn Kiên C và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Do vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 27/7/2023, tại khu vực trục đường thôn H, xã L huyện Đ tỉnh T,Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ phối hợp với Công an xã L đang làm nhiệm vụ trên địa bàn xã L phát hiện bắt quả tang Lã Quý Đ có hành vi tàng trữ tại lòng bàn tay trái 01 gói nhỏ bên ngoài gói bằng giấy kim loại màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục là ma túy loại Heroinecó khối lượng 0,1386 gam với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị Công an huyện Đ phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249.Tàng trữ trái phép chất ma túy 1.Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

....

c. Heroin, cocain, methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR -11có khối lượng từ 0,1gam đến 05 gam;

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[3] Về tính chất mức độ hậu quả hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự an ninh an toàn xã hội. Bản thân bị cáo biết tác hại của ma túy, biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy là bất hợp pháp nhưng vẫn tàng trữ ma túy để sử dụng. Bị cáo có nhân thân không tốt, đã 01 lần bị Tòa án nhân dân huyện Đ kết án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng sau khi chấp hành xong bản án bị cáo không lấy đó là bài học tu dưỡng bản thân vẫn tiếp tục tàng trữ trái phép chất ma túy để thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Vì vậy, việc đưa vụ án ra xét xử là cần thiết và cần áp dụng mét møc ¸n tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng răn đe giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng, là lao động tự do không có thu nhập ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Do vậy không nhất thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]Về xử lý vật chứng: Số ma túy loại Heroine thu giữ của bị cáo là chất Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[7]Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8]Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định Về nguồn gốc ma tuý: Theo bị cáo Đ khai mua của một người đàn ông khoảng 45 tuổi không biết tên và địa chỉ đứng ở ven đường khu vực cầu Đ, xã L, huyện Đ, Cơ quan điều tra Công an huyện Đ không xác định được người bán nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Đối với số tiền 200.000 đồng mua ma túy là do Đ lao động mà có.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

 1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lã Quý Đ phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2.Về hình phạt và điều luật áp dụng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lã Quý Đ 01(một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, ngày 27/7/2023.

3.Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy 0,1090gam(Không phẩy một nghìn không trăm chín mươi gam) ma túy loại Heroineđược niêm phong trong phong bì do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T hoàn trả mẫu vật giám định,có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Đ và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ ngày 31/10/2023.

4.Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Lã Quý Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5.Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, ngày 15/11/2023.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 74/2023/HS-ST

Số hiệu:74/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về