Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 74/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 74/2021/HSST NGÀY 20/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 20 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 75/2021/HSST ngày 07 tháng 9 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2021/QĐXXST – HS ngày 08 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Quang T; tên gọi khác: Lò Văn T; sinh năm: 1990 tại: Huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Thôn D Đ, xã Đ H, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; Con ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm: 1958 và bà Lò Thị Đ, sinh năm: 1975 (Đã chết); bị cáo chưa có vợ.

Tiền án: Bản án số: 123/2019/HSST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh đã tuyên phạt bị cáo Nguyễn Quang T 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Nhân thân: Ngày 07/12/2012, Nguyễn Quang T, tên gọi khác: Lò Văn T bị Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn la đã xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi gây rối trật tự công cộng; Bản án số: 27/2013/HSST ngày 25/4/2013 của Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La đã xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T, tên gọi khác: Lò Văn T 30 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích; Bản án số: 17/2015/HSST ngày 12/3/2015 của Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La đã xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T, tên gọi khác: Lò Văn T 02 năm tù về các tội: Trốn khỏi nơi giam và trộm cắp tài sản (Đã được xóa án tích).

Trong vụ án này bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/4/2021 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Sốp Cộp, cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 18 giờ 00 phút ngày 17/4/2021, tại khu vực bản Nà Khá, xã Dồm Cang, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, tổ công tác Công an xã Dồm Cang trong quá trình làm nhiệm vụ đã phát hiện bắt quả tang đối tượng Nguyễn Quang T, tên gọi khác Lò Văn T (Sinh năm: 1990, địa chỉ: Thôn D Đ, xã Đ H, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội) về hành vi cất dấu trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ của đối tượng là 01 túi ni lon màu trắng, bên trong có chứa 03 viên nén đồng dạng hình trụ tròn màu hồng (Nghi là ma túy tổng hợp).

Hồi 10 giờ 00 phút, ngày 19/4/2021, tại cơ quan CSĐT Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, đã tiến hành cân tịnh số vật chứng là 03 viên nén đồng dạng hình trụ tròn màu hồng thu giữ của Nguyễn Quang T, có khối lượng là 0,24 gam (Không phẩy hai mươi bốn gam), sử dụng toàn bộ 03 viên nén khối lượng 0,24 gam ký hiệu T làm mẫu gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số: 825 ngày 20/4/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:

- " Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,24 gam . Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,24 gam, loại Methamphetamine;

- Hoàn lại đối tượng giám định: Chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu T, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,13 gam".

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, bị can Nguyễn Quang T đã khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 12 giờ 00 phút ngày 17/4/2021, bị can Nguyễn Quang T, Lò Văn Duẩn và Lò Văn Tuấn tổ chức uống rượu ở nhà anh Lò Văn Duẩn tại bản Nà Khá, xã Dồm Cang, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Bị can Tuấn, Duẩn và Lò Văn Tuấn uống rượu đến khoảng 16 giờ cùng ngày thì hết rượu nên Duẩn đi mua thêm rượu, trong khi bị can T và Lò Văn Tuấn ngồi chờ rượu thì có một người đàn ông tên Quân đến nhà Duẩn chơi. Lúc này Lò Văn Tuấn nói có việc nên chào bị can T và Quân để về nhà, còn lại bị can T, người đàn ông tên Quân ngồi lại nhà Duẩn và trong lúc nói chuyện thì Quân bỏ ra 02 viên hồng phiến cho bị can Tuấn cùng sử dụng, sử dụng xong thì bị can T xin được của Quân 03 viên hồng phiến được gói bằng mảnh ni lon màu trắng, bị can tự nói với Quân lúc nào có tiền sẽ trả Quân 150.000 đồng. Sau khi người đàn ông tên Quân đi khỏi nhà Duẩn thì bị can T dấu gói ma túy vừa xin được ở dưới chiếc Chiếu đang dải dưới nền nhà anh Duẩn để sử dụng cho bản thân và đúng lúc đó thì tổ công tác Công an xã Dồm Cang, huyện Sốp Cộp có mặt bắt quả tang bị can T về hành vi cất dấu trái phép 03 viên ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,24 gam được gói bằng mảnh ni lon màu trắng như đã nêu.

Tại bản Cáo trạng số: 53/CT - VKS ngày 06/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, đề nghị truy tố bị can Nguyễn Quang T, tên gọi khác Lò Văn T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, giữ quan điểm truy tố bị cáo, với tội danh và điều khoản luật áp dụng như trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang T, tên gọi khác: Lò Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý và xử phạt bị cáo mức án từ 20 đến 24 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng:

Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu hủy: 0,13 gam ma túy, loại Methamphetamine là số còn lại không sử dụng đến trong quá trình giám định và 01 mảnh ni lon màu trắng.

Về án phí: Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Tại phiên tòa bị cáo có ý kiến: Thừa nhận nhân thân đã nhiều lần bị kết án và ngày 17/4/2021 lại tiếp tục bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép 0,24 gam ma túy, loại Methamphetamine để sử dụng cho bản thân. Nay bị cáo đã biết tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về nội dung: Ngày 17/4/2021, bị cáo Nguyễn Quang T, tên gọi khác Lò Văn T đã bị bắt quả tang khi đang cất dấu trái phép 0,24 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích sử dụng cho bản thân. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được hành vi xin, tàng trữ trái phép chất ma túy sử dụng cho bản thân là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm thỏa mãn cơn nghiện. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ là ma túy; kết luận giám định về ma túy và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Quang T đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) … c) Heroine, Cocaine,Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.".

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến lĩnh vực độc quyền thống nhất quyền quản lý nhà nước về các chất ma tuý. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm sử dụng cho bản thân trước hết là xâm hại đến chính sức khỏe, tài sản của bị cáo; sau là hành vi tiếp tay cho loại tội phạm khác như mua bán, vận chuyển trái phép chất ma tuý trong xã hội gia tăng; là nguyên nhân làm phát sinh, lây lan tệ nạn sử dụng trái phép chất ma túy trong xã hội hiện nay. Tội phạm bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng, do đó cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian đủ mức trừng trị răn đe, giáo dục và cải tạo bị cáo thành người công dân có ý thức chấp hành pháp luật.

[4] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã từng bị kết án về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số: 123/2019/HSST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh) chưa được xóa án tích. Do đó bị áp dụng là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Tình tiết nhân thân: Năm 2012 bị cáo bị xử phạt hành chính (Phạt tiền) về hành vi gây rối trật tự công công; năm 2013 bị kết án về tội Cố ý gây thương tích; năm 2015 về các tội trốn khỏi nơi giam và trộm cắp tài sản. Mặc dù tình đến thời điểm phạm tội trong vụ án này đã được xóa án tích, nhưng đã thể hiện bị cáo là người thiếu ý thức cải tạo, để làm căn cứ quyết định hình phạt, theo quy định tại Điều 50 Bộ luật hình sự.

[6] Tình tiết giảm nhẹ: Xét quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội trong vụ án bị xét xử và những lần bị kết án trước đó, nên được áp dụng là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7] Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào biên bản xác minh xác định bị cáo không bất cứ có tài sản gì để thi hành. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng.

[9] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,13 gam Methamphetamine (Số còn lại không sử dụng đến trong quá trình giám định) là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo và là vật nhà nước cấm lưu hành. Do vậy cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự để tuyên tịch thu tiêu hủy cùng với 01 mảnh ni lon màu trắng.

[10] Đối với nguồn gốc ma túy bị bắt giữ, theo bị cáo khai do xin được của người đàn ông tên Quân tại nhà anh Lò Văn Duẩn (Bản Nà Khá, xã Dồm Cang, huyện Sốp Cộp). Quá trình điều tra do ngoài thông tin về người đàn ông tên Quân ra thì bị cáo không cung cấp được tên họ, tên đệm, địa chỉ và đặc điểm nhận dạng cụ thể của đối tượng, nên không có cơ sở để điều tra làm rõ.

[11] Về nguyên nhân, hoàn cảnh dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo, Tòa án nhận thấy: Bị cáo được sinh ra từ một quan hệ hôn nhân trái pháp luật giữa bố bị cáo là người đàn ông đã có vợ ở miền xuôi với mẹ bị cáo là một người phụ nữ ở huyện miền núi. Ngay từ lúc sinh ra bị cáo đã không có sự quan tâm, dạy dỗ của bố, đến năm 10 tuổi thì mẹ chết, lúc này bị cáo mới được bố đón về nuôi nhưng không được công khai thừa nhận là con đẻ. Đây chính là vết thương trong tình cảm của bị cáo so với những đứa trẻ khác luôn có đủ tình yêu thương của cả bố lẫn mẹ, điều này đã tác động tiêu cực đến tâm lý của bị cáo, dẫn đến hành vi phó mặc, đua đòi, nghiện ngập ma túy và phạm tội. Do vậy để phòng ngừa tội phạm và người phạm tội như đã xảy ra trong vụ án, Hội đồng xét xử kiến nghị đến chính quyền các cấp trên địa bàn huyện Sốp Cộp, đặc biệt quan tâm đến công tác quản lý người tạm trú, tạm vắng, công tác quản lý hộ tịch, hộ khẩu trên địa bàn để không lặp lại tình trạng vi phạm pháp luật hình sự có hệ quả do những người con được sinh ra từ những quan hệ Hôn nhân trái pháp luật.

[12] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[13] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án, theo quy định tại các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang T, tên gọi khác Lò Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T, tên gọi khác Lò Văn T 22 (Hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 17/4/2021 (Ngày bắt giữ bị cáo).

Căn cứ khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Quang T, tên gọi khác Lò Văn T trong hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án, để đảm bảo biện pháp thi hành án phạt tù.

2. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ:

+ 01 (Một) phong bì thư của Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, đã được niêm phong dán kín bằng giấy niêm phong, một mặt phong bì ghi: "Vật chứng vụ: Nguyễn Quang T - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 17/4/2021, tại bản Nà Khá, xã Dồm Cang, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; bên trong có chứa 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 túi ni lon màu trắng".

+ 01 (Một) phong bì thư của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, đã được niêm phong dán kín. Mặt trước phong bì ghi: CÔNG AN TỈNH SƠN LA, PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, PHONG BÌ NIÊM PHONG. Vật chứng vụ: Nguyễn Quang T - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 17/4/2021, tại xã Dồm Cang, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Niêm phong hồi 08 giờ 00 phút, ngày 07 tháng 5 năm 2021. Tại: Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La. Gồm có: 01 Phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở + 01 túi ni lon màu trắng bên trong chứa chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu T không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,13 gam". (Theo kết luận giám định số: 825 ngày 20/4/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La thì chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu T không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,13 gam là ma túy, loại Methamphetamine).

3. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

- Buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Báo cho bị cáo biết quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (20/9/2021)./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 74/2021/HSST

Số hiệu:74/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về