Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 73/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 73/2024/HS-ST NGÀY 11/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 4 năm 2024 tại Trụ sở Uỷ ban nhân dân phường M, thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 82/2024/TLST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2024/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Huy T, sinh ngày 26 tháng 02 năm 2000 tại: Thái Bình; số căn cước công dân: 034200013X; nơi đăng ký thường trú: thôn N, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: thôn N, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn V và bà Phạm Thị T; vợ, con: Không; tiền án: Bản án số 39/2021/HS-ST ngày 29-9-2021 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Nam Định xử phạt 21 tháng tù về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự (chấp hành án phạt tù xong ngày 01-02-2023); Tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03-01-2024, chuyển tạm giam từ ngày 12-01-2024 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố N. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

Anh Bùi Duy M

Ông Nguyễn Văn Q 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 03-01-2024, tổ công tác Công an phường L, thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa nhà số 1/127 phố M, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định phát hiện Bùi Huy T điều khiển xe máy biển kiểm soát 15K1 – X có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. T thả từ tay phải xuống đất 01 gói giấy màu trắng, bên trong có túi ni lông màu trắng kích thước khoảng (3,5 x 2,5) cm, trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (T khai là ma túy tổng hợp dạng đá mua về để sử dụng). Tổ công tác đã thu giữ, niêm phong vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Bùi Huy T. Ngoài ra tạm giữ của T 01 chiếc xe máy nhãn hiệu YMAHA, số loại SIRIUSBGY3, màu xám vàng đen, số máy E32VE770898, số khung RLCUE3740PY194434, lắp biển kiểm soát 15K1 – X.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã ra quyết định trưng cầu giám định vật chứng thu giữ của Bùi Huy T. Tại Bản kết luận giám định số 233/KL-KTHS ngày 09-01-2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất rắn dạng tinh thể màu trắng trong 01 túi ni lông màu trắng kích thước (3,5 x 2,5) cm (túi ni lông được gói trong 01 gói giấy màu trắng), được niêm phong gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Methamphetamine. Khối lượng mẫu: 0,867 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Bùi Huy T khai nhận như sau: Khoảng 06 giờ ngày 03- 01-2024 T mượn xe máy nhãn hiệu YMAHA biển kiểm soát 17B2 -X của chị Mai Thị H, sinh năm 1995, trú tại thôn N, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình (chị dâu T), sau đó T cho một người bạn tên Th (không rõ lai lịch, địa chỉ) mượn xe máy trên. Khi trả xe, Th bảo T là biển kiểm soát xe bị rơi nên Th lắp biển kiểm soát 15K1 – X vào xe (T không biết Th lắp biển xe này vào mục đích gì). Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 03-01-2024, T điều khiển xe máy nhãn hiệu YMAHA, số loại SIRIUSBGY3, màu xám vàng đen lắp biển kiểm soát 15K1 – X từ nhà đến khu vực ngõ 127 phố M, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định gặp một nam thanh niên (không rõ lai lịch, địa chỉ) mua 01 túi ma túy tổng hợp dạng đá với giá 300.000 đồng, T cầm gói ma túy trong tay phải, điều khiển xe máy đi tìm chỗ sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ.

Bản cáo trạng số 88/CT-VKSND-TPNĐ ngày 26-3-2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố bị cáo Bùi Huy T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Bùi Huy T đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân như bản cáo trạng đã nêu.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Bùi Huy T tại phiên tòa thể hiện hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó Viện kiểm sát nhân dân thành phố N giữ nguyên nội dung bản cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Bùi Huy T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Bùi Huy T từ 33 tháng tù đến 36 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy và 01 chiếc biển kiểm soát 15K1- X đã thu giữ của bị cáo Bùi Huy T.

- Buộc bị cáo Bùi Huy T nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Bùi Huy T nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Bùi Huy T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo Bùi Huy T trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 03-01-2024; Biên bản thu giữ vật chứng ngày 03-01-2024; Bản kết luận giám định số 233/KL-KTHS ngày 09-01-2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; lời khai của những người làm chứng cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 11 giờ ngày 03- 01-2024, tại khu vực trước cửa nhà số 1/127 phố M, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định, Bùi Huy T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,867 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo Bùi Huy T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện; khối lượng Methamphetamine bị cáo tàng trữ mục đích để sử dụng là 0,867 gam. Vì vậy bị cáo Bùi Huy T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì bị cáo Bùi Huy T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo sẽ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Bùi Huy T có 01 tiền án tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nên bị cáo sẽ chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về hình phạt:

Hành vi phạm tội của bị cáo Bùi Huy T là nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu đối với an ninh trật tự trên địa bàn thành phố N; bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, với mức hình phạt tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Xét thấy bị cáo Bùi Huy T không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử sẽ không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

Số ma túy thu giữ của bị cáo Bùi Huy T là vật cấm lưu hành nên sẽ tịch thu tiêu hủy.

Cơ quan điều tra đã xác minh chiếc xe máy nhãn hiệu YMAHA, số loại SIRIUSBGY3, màu xám vàng đen, biển kiểm soát 17B2 – X là của chị Mai Thị H. Do chị H không biết T mượn xe đi mua ma túy và lắp biển kiểm soát xe giả vào xe của mình nên trả lại xe cho chị H.

01 chiếc biển kiểm soát 15K1 – X Cơ quan điều tra đã xác minh do không rõ nguồn gốc nên tịch thu tiêu huỷ.

[7] Đối với đối tượng bán ma túy cho Bùi Huy T, và người tên Th mượn xe máy của bị cáo Bùi Huy T lắp biển số giả 15K1 – 019.19 vào xe máy, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N tách ra để điều tra, xử lý sau.

[8] Về án phí:

Bị cáo Bùi Huy T bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Huy T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Bùi Huy T 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03-01-2024.

2. Xử lý vật chứng:

- Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

- Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy gói ma túy đã thu giữ trong phong bì niêm phong số 233/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định và 01 chiếc biển kiểm soát 15K1 – X.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05-4-2024).

3. Án phí:

- Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Bùi Huy T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Bị cáo Bùi Huy T có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo Bùi Huy T có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 73/2024/HS-ST

Số hiệu:73/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về