Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 73/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 73/2023/HS-ST NGÀY 23/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 67/2023/HSST ngày 24 tháng 4 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2023/HSST-QĐ ngày 08 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:

Võ Minh H, sinh ngày 15/9/2989, tại tỉnh Long An; Nơi thường trú: Ấp M, xã M, huyện Đ, tỉnh L; Nghề nghiệp: Thợ sửa xe; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Nhật T và bà Phạm Thị H; Vợ: Nguyễn Thị Trúc A (đã ly hôn) và có 02 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Có 03 tiền sự.

Tại Quyết định số 128/QĐ-XPHC ngày 16/10/2022 của Công an xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xử phạt Võ Minh H 1.500.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (Võ Minh H chưa thi hành xong Quyết định).

Tại Quyết định số 130/QĐ-XPHC ngày 17/11/2022 của Công an xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, xử phạt Võ Minh H 1.500.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (Võ Minh H chưa thi hành xong Quyết định).

Tại Quyết định số 33/2023/QĐ-TA ngày 11/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An áp dụng biện pháp đưa Võ Minh H vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 24 tháng (ngày 16/01/2023 Quyết định số 33 nêu trên chưa có hiệu lực thi hành).

Nhân thân:

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 148/2019/HS-ST ngày 20/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xử phạt Võ Minh H 01 năm 06 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, Võ Minh H chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/8/2020, chấp hành xong phần án phí ngày 17/02/2020, bị cáo đương nhiên được xóa an tích.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/01/2023 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 09/01/2023, bị cáo đi xe buýt đến khu vực gần cầu vượt An Sương thuộc Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh, mua 1.000.000đ chất ma túy từ người thanh niên không rõ lai lịch để sử dụng. Người thanh niên này bán cho bị cáo 02 túi nylon có rãnh khép (01 túi có rãnh khép viền đỏ, 01 túi có rãnh khép viền xanh) bên trong chứa tinh thể màu trắng là chất ma túy (dạng đá). Bị cáo cất giấu 02 túi nylon có rãnh khép chứa chất ma túy vừa mua vào túi quần trước bên phải của chiếc quần đang mặc trên người rồi đi xe buýt về nhà tại ấp Mới 1, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Tại đây, bị cáo cất giấu 02 túi nylon có có rãnh khép chứa chất ma túy vừa mua vào thùng xe điều khiển bằng nhựa (loại xe đồ chơi của trẻ em). Đến khoảng 17 giờ 30 phút ngày 16/01/2023 lực lượng Công an huyện Đức Hòa, kiểm tra, phát hiện bắt quả tang tạm giữ người và vật chứng của vụ án.

Vật chứng tạm giữ gồm: 01 túi nlyon có rãnh khép viền xanh bên trong chứa chất tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy (dạng đá); 01 túi nylon có rãnh khép viền đỏ bên trong chứa chất tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy (dạng đá);

01 cân tiểu ly có kích thước 14cm x 6cm x 2cm; 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng chất ma túy (bao gồm 1 chai bằng nhựa dài 20cm, phần nắp chai có gắn một ống hút bằng nhựa); 01 vật thể bằng kim loại hình cầu, màu đen, mặt ngoài đã bị han gỉ, dài 09cm, đường kính 05cm.

Tại Bản kết luận giám định số 57/KL-KTHS ngày 22/01/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An kết luận:

“Tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi nylon có rãnh khép viền xanh và 01 (một) túi nylon có rãnh khép viền đỏ được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng: 2,6638 gam, loại: Methamphetamine.

Kèm theo kết luận giám định: 01 bản ảnh giám định gồm 10 ảnh được lưu tại Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Long An.

Hoàn lại đối tượng giám định: Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng:

2,1033 gam được đóng gói niêm phong số 57./.”.

Tại bản cáo trạng số 71/CT-VKSĐH ngày 18 tháng 4 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An truy tố bị cáo Võ Minh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà, Kiểm sát viên sau khi phân tích tính chất và mức độ nguy hiểm xã hội của hành vi vi phạm pháp luật mà bị cáo Võ Minh H gây ra. Đồng thời, căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Võ Minh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 38 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Võ Minh H mức hình phạt từ đến 02 năm 6 tháng đến 03 năm tù.

Về tang vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021):

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy:

+ Đối với mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 2,1033 gam, chất ma túy loại Methamphetamine được đóng gói niêm phong số 57 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Long An là chất cấm nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với 01 cân tiểu ly có kích thước 14cm x 6cm x 2cm và 01 bộ dụng cụ để sử dụng ma túy đá (bao gồm 1 chai bằng nhựa dài 20cm, phần nắp chai có gắn 1 ống hút bằng nhựa) là công cụ để sử dụng ma túy nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với 01 vật thể bằng kim loại màu đen, bên ngoài đã bị han gỉ, dài 09cm, đường kính 05cm là mô hình sử dụng để diễn tập trong quân sự, bên trong không có thuốc nổ, Ban chỉ huy quân sự huyện Đức Hòa không xác định được nguồn gốc và không thu hồi nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đối với người thanh niên đã bán trái phép chất ma túy cho bị cáo tại khu vực cầu vượt An Sương do không xác định được nhân thân, lai lịch của người này chỉ có duy nhất lời khai của bị cáo nên không đề nghị xem xét.

Đối với bộ dụng cụ dùng để sử dụng chất ma túy, bị cáo khai nhận mua từ một người không xác định nhân thân, lai lịch dùng để sử dụng chất ma túy. Tuy nhiên, kết quả điều tra xác định bị cáo chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này, chưa bị kết án về tội tàng trữ dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy, ngoài ra số lượng đơn vị dụng cụ không đủ quy định để truy cứu trách nhiệm hình sự nên hành vi của bị cáo không cấu thành tội phạm có liên quan nên không đề nghị xem xét.

Tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn nhìn nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa truy tố, không đưa ra chứng cứ nào minh oan chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đức Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Võ Minh H trước Tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám nghiệm hiện trường, bản ảnh hiện trường, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với bản kết luận giám định số 57/KL-KTHS ngày 22/01/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Long An và phù hợp với nội dung bản cáo trạng. Từ đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Võ Minh H là người nghiện ma túy nên mua 02 túi ma túy cất giữ trong thùng xe điều khiển bằng nhựa để dành sử dụng. Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 16/01/2023, Công an huyện Đức Hòa kiểm tra hành chính thì phát hiện trong xe điều khiển bằng nhựa của bị cáo có 02 túi nylon có rãnh khép chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy. Kết quả giám định 02 túi nylon ma túy mà bị cáo H cất giữ là loại Methamphetamine, tổng khối lượng là 2,6638 gam.

[3] Như vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An truy tố bị cáo Võ Minh H theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.

[4] Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội. Hành vi này đã xâm hại trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây thiệt hại lớn về kinh tế, gây tổn hại sức khỏe con người, làm suy thoái nòi giống, gây mất trật tự xã hội. Khi thực hiện hành vi, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hậu quả nghiêm trọng của ma túy đối với xã hội và bản thân bị cáo. Bị cáo biết rõ ma túy là một trong những nguyên nhân của nhiều tội phạm khác, nhiều căn bệnh hiểm nghèo, bị nghiêm cấm vận chuyển, mua bán, tàng trữ dưới bất kỳ hình thức nào nhưng để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy, bị cáo vẫn bất chấp pháp luật thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo cần được xử lý nghiêm theo pháp luật hình sự, có mức án phù hợp, cách ly bị cáo với xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng trừng phạt, giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo có công với cách mạng nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo đã được xóa án tích. Ngoài ra, bị cáo còn có nhiều tiền sự.

[8] Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên về áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Võ Minh H là phù hợp nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[9] Về tang vật chứng: Căn cứ vào Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021).

Đối với Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 2,1033 gam, chất ma túy loại Methamphetamine được đóng gói niêm phong số 57 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Long An là chất cấm nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 cân tiểu ly có kích thước 14cm x 6cm x 2cm và 01 bộ dụng cụ để sử dụng ma túy đá (bao gồm 1 chai bằng nhựa dài 20cm, phần nắp chai có gắn 1 ống hút bằng nhựa) là công cụ để sử dụng ma túy nên tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với 01 vật thể bằng kim loại màu đen, bên ngoài đã bị han gỉ, dài 09cm, đường kính 05cm là mô hình sử dụng để diễn tập trong quân sự, bên trong không có thuốc nổ, Ban chỉ huy quân sự huyện Đức Hòa không xác định được nguồn gốc và không thu hồi nên tịch thu tiêu hủy.

[10] Đối với người thanh niên có hành vi mua bán chất ma túy cho bị cáo để sử dụng, do không xác định được nhân thân, lai lịch, chỉ có lời khai duy nhất của bị cáo nên không đề cập xem xét.

[11] Đối với bộ dụng cụ dùng để sử dụng chất ma túy, bị cáo khai nhận mua từ một người không xác định nhân thân, lai lịch dùng để sử dụng chất ma túy. Tuy nhiên, kết quả điều tra xác định bị cáo chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này, chưa bị kết án về tội tàng trữ dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy, ngoài ra số lượng đơn vị dụng cụ không đủ quy định để truy cứu trách nhiệm hình sự nên hành vi của bị cáo không cấu thành tội phạm có liên quan nên không đề cập xem xét.

[12] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Võ Minh H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Võ Minh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Võ Minh H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2023.

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2021): Tiếp tục tạm giam bị cáo Võ Minh H 45 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 23/5/2023) để bảo đảm thi hành án.

Về tang vật chứng: Căn cứ vào Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021):

Tịch thu tiêu hủy:

- Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 2,1033 gam, chất ma túy loại Methamphetamine được đóng gói niêm phong số 57 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Long An.

- 01 cân tiểu ly có kích thước 14cm x 6cm x 2cm.

- 01 bộ dụng cụ để sử dụng ma túy đá (bao gồm 1 chai bằng nhựa dài 20cm, phần nắp chai có gắn 1 ống hút bằng nhựa).

- 01 vật thể bằng kim loại màu đen, bên ngoài đã bị han gỉ, dài 09cm, đường kính 05cm.

Tang vật trên do Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 97-20/04/2023 ngày 20 tháng 4 năm 2023.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Võ Minh H nộp 200.000 đồng án phí HSST sung vào công quỹ Nhà nước.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 73/2023/HS-ST

Số hiệu:73/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về