Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 73/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG TÈ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 73/2022/HS-ST NGÀY 18/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 18 tháng 05 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 74/2022/TL-ST-HS, ngày 18 tháng 04 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2022/QĐXXST-HS, ngày 05 tháng 05 năm 2022 đối với bị cáo.

- Mào Văn T: Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 19/10/1985; nơi sinh: Huyện Nậm N, tỉnh Lai C; Nơi ĐKHKTT: Bản Mường M1, xã Mường M, huyện Nậm N, tỉnh Lai C; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Đảng, đoàn: Không; Con ông Mào Văn H (đã chết) và con bà Lò Thị O (đã chết); Vợ: Dương Thị Đ, sinh năm 1985 (hiện đã ly hôn); Con: có 01 con sinh năm 2008; Tiền án, tại bản án số 08/2019/HSST ngày 21/08/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Nậm N, tỉnh Lai C, xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tại bản án số 20/2019/HSST ngày 22/11/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Nậm N, tỉnh Lai C, xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của hai bản án là 02 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/09/2019. Đến ngày 30/08/2021 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương, tính đến thời điểm phạm tội ngày 13/01/2022 bị cáo chưa được xóa án tích; Tiền sự: Không; Nhân thân đã bị xử lý; Bị tạm giữ từ ngày 13/01/2022 đến ngày 22/01/2022, bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Mường M, huyện Nậm N, tỉnh Lai C cho đến nay, có mặt.

- Người làm chứng: Anh Mào Văn D, sinh năm 1979 - Trú tại: Khu phố 11, thị trấn Mường T, huyện Mường T, tỉnh Lai C - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ ngày 12/01/2022, Mào Văn T thuê xe ôm của một người đàn ông lạ mặt đi từ thị trấn Mường T, huyện Mường T đến bản Pa M, xã Hua B, huyện Nậm N, tỉnh Lai C để tìm mua Heroine về sử dụng, khi đến bản Pa M, T gặp một người đàn ông lạ mặt, qua trao đổi, T đã mua được của người đàn ông này 05 (năm) gói heroine, đều được gói ngoài bằng giấy trắng với giá 200.000 đồng, sau đó T đi bộ quay về thị trấn Mường T, trên đường về T lấy một ít Heroine trong 01 gói Heroine để sử dụng, sau đó T xin đi nhờ xe máy của một người đàn ông lạ mặt tiếp tục đi về Thị Trấn Mường T. Khi đến bản Nà H, xã Bum N, huyện Mường T, T xuống xe đi bộ đến khu phố 11, thị trấn Mường T vào nhà anh Mào Văn D. Khi vào nhà T nhặt 01 lọ nhựa màu trắng có nắp đậy màu xanh rồi cho các gói Heroine vào trong lọ, sau đó đem cất giấu dưới gối ngủ. Đến hồi 09 giờ 45 phút cùng ngày 13/01/2022, thì bị tổ công tác Công an thị trấn Mường T đang làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát vào nhà anh D, đồng thời yêu cầu T giao nộp những đồ vật pháp luật cấm tàng trữ, sử dụng, sau đó T đã lấy 05 gói Heroine đang để trong lọ nhựa màu trắng có nắp đậy màu xanh giao nộp cho tổ công tác và khai nhận hành vi phạm tội của mình. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại kết luận giám định tư pháp số 23/KLGĐ, ngày 13/01/2022 của người giám định tư pháp thuộc Công an huyện Mường T, tỉnh Lai C kết luận: Tổng khối lượng 05 gói vật chứng thu giữ của Mào Văn T là 0,18 gam.

Tại kết luận giám định số: 134/GĐ-KTHS ngày 17/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai C kết luận: 05 (năm) mẫu chất bột, màu trắng thu giữ của Mào Văn T gửi đến giám định là ma túy, loại Heroine.

Tại bản cáo trạng số: 32/CT-VKS-MT ngày 15 tháng 04 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T truy tố Mào Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", tại phiên tòa hôm nay vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xử lý:

- Trách nhiệm hình sự: Đối với Mào Văn T về tội danh "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

- Về hình phạt chính: Áp dụng Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Mào Văn T từ: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, do điều kiện của bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 05 (năm) mảnh giấy màu trắng dùng để gói các gói Heroine và 01 (một) lọ nhựa màu trắng có nắp đậy màu xanh là vật chứng còn lại thu giữ của Mào Văn T.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa việc bị cáo khai báo là hoàn toàn tự nguyện, không bị mớm cung, ép cung, bị cáo không khiếu nại gì về quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Sau khi tranh luận Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên mức hình phạt chính như đã đề nghị. Lời nói sau cùng bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được cơ quan tiến hành tố tụng thu thập có trong hồ sơ vụ án như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Hồi 09 giờ 45 phút ngày 13/01/2022 tại nhà của anh Mào Văn D thuộc khu phố 11, thị trấn Mường T, huyện Mường T, tỉnh Lai C. Mào Văn T đang có hành vi tàng trự trái phép 05 gói Heroine có tổng khối lượng là 0,18 gam mục đích là để sử dụng cho bản thân, thì bị tổ công tác Công an thị trấn Mường T phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T đã truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội, bị cáo không khiếu nại gì đối với các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do vậy hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.

[2]. Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương, bị cáo hiểu được điều đó nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra nhằm cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội và gia đình. Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[3]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy: Bị cáo Mào Văn T luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần được xem xét áp dụng cho bị cáo, nhận thấy: Bố của bị cáo là người có công với cánh mạng (được chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng Huân chương kháng chiến năm 1984; Huân chương chiến công năm 1985; Huân chương bảo vệ tổ quốc năm 2013. Bản thân bị cáo được tặng Huy chương chiến sĩ vẻ vang năm 2011) cần được xem xét áp dụng cho bị cáo theo quy định khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần được xem xét áp dụng cho bị cáo.

[4]. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 22/11/2019, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Nậm N, tỉnh Lai C, xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Đến ngày 30/08/2021 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương, tính đến thời điểm phạm tội ngày 13/01/2022 bị cáo chưa được xóa án tích. Do vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5]. Về nhân thân bị cáo Mào Văn T có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, từ nhỏ được bố mẹ nuôi cho ăn học hết lớp 9/12, lớn lên tham gia cách mạng phục vụ trong lực lượng Công an nhân dân, nhưng bản thân bị cáo không chịu khó tu dưỡng, rèn luyện, đã có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản. Bị cáo nhận thức rõ được hành vi tàng trữ chất ma túy của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích thỏa mãn nhu cầu sử dụng chất ma túy của bản thân nên đã cố ý phạm tội. [6]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, ngưi phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 triệu đồng, xét thấy: Bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập, là người thường xuyên sử dụng chất ma túy, gia đình khó khăn. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[7]. Vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 05 (năm) mảnh giấy màu trắng dùng để gói các gói Heroine và 01 (một) lọ nhựa màu trắng có nắp đậy màu xanh là vật chứng còn lại thu giữ của Mào Văn T.

[8]. Về án phí: Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Mào Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9]. Từ những phân tích như trên, Hội đồng xét xử có cơ sở khách quan và căn cứ pháp lý để kết luận: Bị cáo Mào Văn T đã phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; do vậy ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Xử lý vật chứng; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo là có cơ sở đúng quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10]. Đối với người đàn ông lạ mặt đã bán Heroine với giá 200.000 đồng cho bị cáo Mào Văn T. Trong qúa trình điều tra không xác định được lai lịch của người đàn ông này nên không đủ căn cứ để xử lý. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[11]. Đối với Mào Văn D. Qúa trình điều tra xác định: D không biết việc T mua và cất giấu ma túy nên không đủ căn cứ để xử lý. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo: Mào Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Căn cứ vào Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Mào Văn T: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Được khấu trừ 09 (chín) ngày tạm giữ kể từ ngày 13/01/2022 đến ngày 22/01/2022. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

- Về hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: Không áp dụng đối với bị cáo Mào Văn T.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 05 (năm) mảnh giấy màu trắng dùng để gói các gói Heroine và 01 (một) lọ nhựa màu trắng có nắp đậy màu xanh là vật chứng còn lại thu giữ của Mào Văn T.

- Về án phí: Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Mào Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 73/2022/HS-ST

Số hiệu:73/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:18/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về