Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 73/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

 BẢN ÁN 73/2021/HSST NGÀY 17/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

 Ngày 17 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 72/2021/HSST ngày 25 tháng 8 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2021/QĐXXST – HS ngày 06 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Lường Văn T; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1992 tại: Huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản N Ả, xã M L, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; Con ông: Lường Văn X (Đã chết) và bà Lò Thị H, sinh năm: 1976; bị cáo có vợ là: Lò Thị P, sinh năm: 1995 và có 02 con (Lớn sinh năm 2019, nhỏ sinh năm 2021); tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/6/2021 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Sốp Cộp, cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 18 giờ 00 phút ngày 24/6/2021, tại khu vực bản Cang Cói, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, tổ công tác Công an xã Mường Lạn chủ trì phối hợp với Công an huyện Sốp Cộp và Đồn Biên phòng Mường Lạn trong quá trình làm nhiệm vụ đã phát hiện bắt quả tang đối tượng Lường Văn T (Sinh năm: 1992, trú tại: Bản N Ả, xã M L, huyện Sốp Cộp) về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ: Thu giữ trong túi quần bên phải của Lường Văn T đang mặc 01 gói ni lon màu hồng, bên trong có 05 viên nén màu hồng (Theo đối tượng Lường Văn T khai nhận là ma túy tổng hợp).

Ngày 25/6/2021, tại cơ quan CSĐT Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, đã tiến hành cân tịnh số vật chứng là 05 viên nén màu hồng thu giữ của Lường Văn T, có khối lượng là 0,46 gam (Không phẩy bốn mươi sáu gam), sử dụng 03 viên có khối lượng 0,28 gam ký hiệu T làm mẫu gửi giám định. Số còn lại 02 viên có khối lượng 0,18 gam ký hiệu T1 lưu kho vật chứng.

Tại bản Kết luận giám định số: 1024 ngày 30/6/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: " Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,28 gam . Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,46 gam, loại Methamphetamine".

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, bị can Lường Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 16 giờ 00 phút ngày 24/6/2021, Lường Văn T đi bộ từ nhà ở bản N Ả đến bản Pu Hao, cùng thuộc xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp để tìm mua ma túy sử dụng, khi tới cuối bản Nà Ả thì T thấy một người đàn ông đi xe mô tô cùng chiều nên đã xin đi nhờ, khi đến được bản Pu Hao thì T xuống xe đi bộ vào trong bản gặp và mua được của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết 05 viên hồng phiến được gói bằng mảnh ni lon màu hồng với giá 100.000 đồng. Sau khi mua được ma túy thì T đi bộ quay về nhà, trên đường về T lại xin đi nhờ xe mô tô của một người người đàn ông không quen biết đến bản Mường Lạn thì xuống xe để tiếp tục đi bộ về nhà, khi đi đến khu vực bản Cang Cói, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp thì bị tổ công tác Công an xã Mường Lạn chủ trì phối hợp với Công an huyện Sốp Cộp và Đồn Biên phòng Mường Lạn phát hiện bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép 05 viên ma túy được gói bằng mảnh ni lon màu hồng như đã nêu.

Tại bản Cáo trạng số: 50/CT - VKS ngày 23/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, đề nghị truy tố bị can Lường Văn T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, giữ quan điểm truy tố bị cáo Lường Văn T, với tội danh và điều khoản luật áp dụng như trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Lường Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý và xử phạt bị cáo mức án từ 20 đến 26 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng:

Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu hủy: 0,18 gam ma túy, loại Methamphetamine (Số còn lại sau khi trích rút 0,28 gam giám định) và 01 mảnh ni lon màu hồng.

Về án phí: Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Miễn cho bị cáo không phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo có ý kiến: Thừa nhận ngày 24/6/2021 đã bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép 0,46 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân (Bị cáo nghiện ma túy 02 năm). Nay bị cáo đã biết tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về nội dung: Ngày 24/6/2021, bị cáo Lường Văn T (Có căn cước lý lịch như trên) đã bị bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép 0,46 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích sử dụng cho bản thân. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma túy sử dụng cho bản thân là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm thỏa mãn cơn nghiện. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ là ma túy; kết luận giám định về ma túy và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã đủ căn cứ kết luận bị cáo Lường Văn T đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên về mức án theo đề nghị của Viện kiểm sát đối với bị cáo từ 20 đến 26 tháng tù là quá nghiêm khắc so với khối lượng ma túy tàng trữ trong vụ án, nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Cần xử phạt tù bị cáo dưới mức đề nghị của Viện kiểm sát.

Tại Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) … c) Heroine, Cocaine,Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.".

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến lĩnh vực độc quyền thống nhất quyền quản lý nhà nước về các chất ma tuý. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm sử dụng cho bản thân trước hết là xâm hại đến chính sức khỏe, tài sản của bị cáo; sau là hành vi tiếp tay cho loại tội phạm khác như mua bán, vận chuyển trái phép chất ma tuý trong xã hội gia tăng; là nguyên nhân làm phát sinh, lây lan tệ nạn sử dụng trái phép chất ma túy trong xã hội hiện nay. Tội phạm bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng, do đó cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian đủ mức trừng trị răn đe, giáo dục và cải tạo bị cáo thành người công dân có ý thức chấp hành pháp luật.

[4] Tình tiết tăng nặng: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ: Xét quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội, nên được xem xét, áp dụng là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

[7] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào biên bản xác minh xác định bị cáo không có tài sản để thi hành. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng.

[8] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,18 gam Methamphetamine (Số còn lại sau khi trích rút 0,28 gam gửi giám định) là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo và là vật nhà nước cấm lưu hành. Do vậy cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự để tuyên tịch thu tiêu hủy cùng với 01 mảnh ni lon màu hồng.

[9] Đối với nguồn gốc ma túy bị bắt giữ, theo bị cáo khai do mua của 01 người đàn ông dân tộc Mông không quen biết tại bản Pu Hao, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La ngày 24/6/2021. Quá trình điều tra do bị cáo không cung cấp được tên, tuổi, địa chỉ và đặc điểm nhận dạng cụ thể của đối tượng. Nên không có cơ sở để điều tra xử lý.

[10] Đối với 02 người đàn ông cho bị cáo đi nhờ xe mô tô (Chiều đi và về). Do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể. Nên cơ quan Điều tra không có cơ sở để triệu tập, điều tra, làm rõ.

[11] Về án phí: Bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nên được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[12] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án, theo quy định tại các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Lường Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Xử phạt bị cáo Lường Văn T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 24/6/2021 (Ngày bắt giữ bị cáo).

Căn cứ khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Tiếp tục tạm giam bị cáo Lường Văn T trong hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án, để đảm bảo biện pháp thi hành án phạt tù.

2. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ: 01 (Một) phong bì thư của Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, đã được niêm phong dán kín bằng giấy niêm phong, một mặt phong bì ghi: "Vật chứng vụ: Lường Văn T - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 24/6/2021 tại bản Cang Cói, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; bên trong có chứa 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh ni lon màu hồng, 01 túi ni lon màu trắng chứa 02 viên nén màu hồng hình trụ tròn có khối lượng 0,18 gam (Không phẩy mười tám gam)".

(Theo kết luận giám định số: 1024 ngày 30/6/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La thì 02 viên nén màu hồng hình trụ tròn có khối lượng 0,18 gam là ma túy, loại Methamphetamine).

3. Về án phí:

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

- Miễn cho bị cáo không phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Báo cho bị cáo biết quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (17/9/2021)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 73/2021/HSST

Số hiệu:73/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về