TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 72/2023/HS-ST NGÀY 15/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 15 tháng 8 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm: Phòng xét xử tầng 1 – Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình và điểm cầu thành phần: Nhà tạm giữ Công an huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình xét xử trực tuyến công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 72/2023/HSST ngày 25 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2023/HSST-QĐ ngày 31 tháng 7 năm 2023, đối với bị cáo:
Nguyễn Văn H (tên gọi khác: Không), sinh năm 1988 Nơi sinh, nơi cư trú: Thôn N, xã Đ, huyện Đ1, tỉnh Thái Bình.
Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.
Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.
Con ông Nguyễn Văn C (là liệt sĩ) và bà Bùi Thị T sinh năm 1960. Gia đình có 02 anh, em bị cáo là con thứ hai;
Vợ, con: Chưa có;
Tiền án (có 01 tiền án): Bản án số 73/2016/HSST ngày 30/9/2016 Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình xử 08 năm 06 tháng tù; phạt bổ sung 5.000.000 đồng; tịch thu 1.100.000 đồng tiền phạm tội mà có và chịu 200.000 đồng án phí HSST, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ra trại ngày 24/5/2022, đã chấp hành xong án phí, hình phạt bổ sung, tiền truy thu ngày 02/6/2020.
Tiền sự: Không;
Nhân thân:
- Bản án số 54/2011/HSST ngày 25/10/2011 Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xử 02 năm tù, về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong toàn bộ Bản án ngày 20/3/2013.
- Quyết định đưa người vào cơ sở giáo dục số 952/QĐ-UBND ngày 17/5/2013 của Chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình thời hạn 24 tháng, đã chấp hành xong ngày 18/6/2015.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 14/4/2023 đến ngày 17/4/2023 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.
* Tại điểm cầu trung tâm:
- Người làm chứng:
Anh Hoàng Ngọc P sinh năm 2002 Địa chỉ: Thôn T1, xã Đ, huyện Đ1, tỉnh Thái Bình.
- Người chứng kiến:
1. Anh Nguyễn Hồng G, sinh năm 1971 Địa chỉ: Thôn T2, xã T3, huyện Đ1, tỉnh Thái Bình.
1. Ông Đỗ Ngọc T0, sinh năm 1962 Địa chỉ: Thôn L, xã T3, huyện Đ1, tỉnh Thái Bình.
* Tại điểm cầu thành phần:
1. Bị cáo Nguyễn Văn H, sinh năm 1988 Nơi sinh, nơi cư trú: Thôn N, xã Đ, huyện Đ1, tỉnh Thái Bình. (Trích xuất có mặt tại phiên tòa điểm cầu thành phần).
2. Thư ký tham gia hỗ trợ: Bà Nguyễn Thị Quỳnh A.
3. Kiểm sát viên tham gia hỗ trợ: Ông Vũ Minh H.
4. Công an làm nhiệm vụ: Ông Nguyễn Bá M – Cán bộ Công an huyện Đông Hưng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Văn H là người sử dụng ma túy loại Hêrôin. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 17 giờ 30 phút ngày 14/4/2023, H điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Jupiter, biển kiểm soát 19S1- 164.1x đến nhà rủ Hoàng Ngọc P là bạn làm cùng Công ty may đi cùng H lên xã Lô Giang mục đích để mua ma túy; tuy nhiên H chỉ nói với P là đi chơi. H điều khiển xe mô tô chở Phúc đến khu vực đèn xanh đỏ xã T3 thì dừng lại bảo P xuống xe đứng đợi H đi gặp bạn lúc. Sau đó H điều khiển xe mô tô đến khu vực ngã ba xã L tìm gặp một người đàn ông khoảng 35 tuổi, H không biết tên, tuổi, địa chỉ hỏi mua 2.000.000 đồng ma túy loại Hêrôin, người này đồng ý; H đưa người này 2.000.000 đồng, người này đưa lại cho H 11 gói nhỏ được gói bằng giấy kim loại màu trắng, bên trong có chất bột màu trắng dạng cục. H cầm 11 gói ma túy ở lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe quay lại chỗ P đứng đợi, H đưa xe cho P điều khiển về, khi cả hai về đến đường trục thôn L, xã T3 thì bị tổ công tác Công an huyện Đông Hưng phối hợp với Công an xã T3 đang làm nhiệm vụ yêu cầu dừng lại để kiểm tra vì nghi có liên quan đến ma tuý. Tổ công tác mời người chứng kiến; giải thích quyền, nghĩa vụ theo quy định thì H đã tự nguyện giao nộp 11 gói ma túy vừa mua đang cầm ở lòng bàn tay trái cho tổ công tác. Tổ công tác đã đưa H và P về Uỷ ban nhân dân xã T3, huyện Đ1lập biên bản biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng, quản lý phương tiện, sau đó dẫn giải về Công an huyện Đông Hưng làm việc.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đông Hưng đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn H ở thôn Nam, xã Đông Sơn, huyện Đông Hưng nhưng không thu giữ đồ vật, tài sản gì.
Tại bản Kết luận giám định số 540/KL- KTHS ngày 17/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh kết luận: Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 1,0642 gam.
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên Cáo trạng số 70/CT-VKSĐH ngày 20/7/2023 đã truy tố, hành vi của bị cáo Nguyễn Văn H đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử:
* Về áp dụng pháp luật và hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s, x khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Đề nghị tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
* Ngoài ra còn đề nghị HĐXX giải quyết về vật chứng, án phí của vụ án.
Bị cáo Nguyễn Văn H nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo và phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra; Phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang do Công an huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình lập hồi 19 giờ 30 phút ngày 14/4/2023 tại Ủy ban nhân dân xã T3, huyện Đ1, Biên tạm giữ đồ vật tài liệu và niêm phong vật chứng, Kết luận giám định số 540/KL-KTHS ngày 17/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Lời khai của những người chứng kiến anh Nguyễn Hồng G và ông Đỗ Ngọc T0; Lời khai của người làm chứng anh Hoàng Ngọc P cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ.
[2.1] Do vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ 15 phút ngày 14/4/2023, tại trục đường thôn L, xã T3, huyện Đ1, tỉnh Thái Bình; Công an huyện Đông Hưng phối hợp cùng Công an xã T3 bắt quả tang Nguyễn Văn H đang có hành vi tàng trữ trái phép 1,0642 gam ma túy lại Heroine tại lòng bàn tay trái mục đích để sử dụng.
Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn H đã phạm vào tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
“Điều 249. Tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
...”.
[2.2] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi lẽ: Đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước, gây mất trật tự an ninh an toàn xã hội. Ma tuý còn là nguồn gốc phát sinh các loại bệnh tật ảnh hưởng đến giống nòi và thuần phong mỹ tục của dân tộc, kéo theo sự xuống cấp của đạo đức xã hội và là nguồn gốc của nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Bị cáo nhận thức được việc sử dụng ma túy là nguy hiểm và vi phạm pháp luật nhưng do bị cáo đua đòi bạn bè vẫn cố tình sử dụng nên cần áp dụng hình phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.
[2.3] Khi xem xét, cân nhắc hình phạt cần xem xét đến tình tiết tăng nặng và các tình tiết giảm nhẹ:
- Bị cáo Nguyễn Văn H có 01 tiền án chưa được xóa nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h (tái phạm) khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
- Về các tình tiết giảm nhẹ: Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo H đã thành khẩn khai báo; bố bị cáo là liệt sỹ nên hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng tại phiên tòa là phù hợp.
[2.4] Về hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo Nguyễn Văn H tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do thu nhập không ổn định, bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy không vì mục đích vụ lợi, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[2.5] Trong vụ án này:
- Đối với Hoàng Ngọc P là người đi cùng H nhưng P không biết H đi mua ma túy về sử dụng nên không có căn cứ xử lý đối với P.
- Về nguồn gốc ma túy: H khai mua của một người đàn ông khoảng 35 tuổi không rõ tên, địa chỉ ở xã L, huyện Đ1 nên không có căn cứ điều tra xử lý.
- Số tiền 2.000.000 đồng bị cáo sử dụng mua ma túy là do lao động mà có nên không truy thu.
[3] Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đối với 0,9733 gam ma túy hoàn trả lại sau giám định có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Đông Hưng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hưng ngày 20/7/2023 cần tịch thu, tiêu hủy.
[4] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Áp dụng điều luật và hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249;
điểm h (tái phạm) khoản 1 Điều 52; điểm s, x khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H : 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 14/4/2023.
- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Văn H.
3. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố Tụng hình sự.
- Tịch thu, tiêu hủy: 0,9733 gam ma túy hoàn trả lại sau giám định có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Đông Hưng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hưng ngày 20/7/2023.
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 72/2023/HS-ST
Số hiệu: | 72/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về