TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 70/2023/HS-ST NGÀY 27/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27/11/2023 tại Điểm cầu trung tâm Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, kết nối với điểm cầu thành phần Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 62/2023/TLST - HS ngày 25/10/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2023/QĐXXST - HS, ngày 13 tháng 11 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Mạnh H; Giới tính: Nam. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 05 tháng 6 năm 1983. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ dân phố E, thị trấn T, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.
Nghề nghiệp: Lao động tự do. Chức vụ đoàn thể: Quần chúng. Trình độ học vấn: 09/12. Họ tên cha: Nguyễn Văn T (đã chết). Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1938.Trú tại: Tổ dân phố E, thị trấn T, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Anh chị em ruột: Có 04 người, bị cáo là con thứ tư. Vợ: Vi Thị S; Sinh năm 1981; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Hiện sống tại Tổ dân phố E, thị trấn T, huyện H, Hà Tĩnh. Con: 02 đứa, đứa lớn sinh năm 2003, hiện tham gia nghĩa vụ quân sự ở tỉnh Nghệ An, đứa nhỏ sinh năm 2006 sống cùng với mẹ. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Tại Bản án số 11/2007/HSST ngày 23/3/2007 Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 07 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm đ khoản 2 điều 194 Bộ luật hình sự 1999. Ngày 25/4/2012 chấp hành xong bản án(đã được xóa án tích). Tại Bản án số 55/2015/HSST ngày 18/12/2015, Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 điều 138 Bộ luật hình sự. Ngày 19/01/2017 chấp hành xong bản án(đã được xóa án tích). Ngày 22/6/2023, bị Chủ tịch UBND thị trấn T ra Quyết định áp dụng biện pháp quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, trong thời hạn một năm, kể từ ngày ban hành Quyết định.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/6/2023 tại Nhà tạm giữ Công an huyện H đến ngày 11/7/2023 chuyển tạm giam, tại trại tạm giam Công an tỉnh H. Bị cáo có mặt tại điểm cầu thành phần Trại tạm giam Công an tỉnh H, sức khỏe bình thường và tự bào chữa.
2. Họ và tên: Nguyễn Văn D; Giới tính: Nam. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 24 tháng 5 năm 1991. Nơi cư trú: Thôn B, xã S, huyện H, Hà Tĩnh. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do.
Trình độ học vấn: 09/12. Họ và tên cha: Nguyễn Văn H1, sinh năm 1962; Họ và tên mẹ: Dương Thị N, sinh năm 1962; Hiện cha, mẹ đều lao động tự do và trú tại thôn B, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Anh chị em ruột: Có 04 người, bị cáo là con thứ tư. Vợ: Hồ Thị X, sinh năm 1987; Nghề nghiệp: lao động tự do. Con: 02 đứa, đứa lớn sinh năm 2015, đứa nhỏ sinh năm 2017. Vợ và con đều sinh sống tại thôn B, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/6/2023 tại Nhà tạm giữ Công an huyện H đến ngày 11/7/2023 chuyển tạm giam, tại trại tạm giam Công an tỉnh H. Bị cáo có mặt tại điểm cầu thành phần Trại tạm giam Công an tỉnh H, sức khỏe bình thường và tự bào chữa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Nguyễn Chí T1, sinh ngày: 24/4/1988; Nghề nghiệp: Cán bộ. Nơi cư trú: TDP E, thị trấn T, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).
+ Ông Nguyễn Duy S1, sinh ngày: 05/12/1992; Nghề nghiệp: Cán bộ. Nơi cư trú: TDP E, thị trấn T, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).
+ Ông Nguyễn Thành L, sinh ngày: 22/12/1995; Nghề nghiệp: Cán bộ. Nơi cư trú: TDP E, thị trấn T, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).
+ Ông Mai Văn D1, sinh ngày: 20/9/1974; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông.
Nơi cư trú: Thôn K, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).
+ Ông Trương Quốc C, sinh ngày: 25/12/1972; Nghề nghiệp: Lao động tự do.
Nơi cư trú: Thôn B, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh (có mặt).
+ Ông Lê Văn H2, sinh ngày: 05/5/1970; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Nơi cư trú: Phố E, phường Q, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt).
+ Bà Nguyễn Thị Đ, sinh ngày: 08/10/1938; Nghề nghiệp: Lao động tự do.
Nơi cư trú: TDP E, thị trấn T, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh (có mặt).
+ Chị Vi Thị S, sinh ngày: 15/6/1981; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Nơi cư trú: TDP E, thị trấn T, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).
+ Anh Nguyễn Chí T2, sinh năm: 1972; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Nơi cư trú: TDP E, thị trấn T, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).
Người giám hộ cho anh Nguyễn Chí T2: Chị Vi Thị S, sinh ngày: 15/6/1981; Nghề nghiệp: lao động phổ thông. Nơi cư trú: TDP E, thị trấn T, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).
- Người chứng kiến: Anh Phan Trọng Q, sinh ngày: 20/12/1992; nơi cứ trú: TDP F, thị trấn T, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).
- Cán bộ, chiến sỹ tại điểm cầu thành phần hỗ trợ phiên tòa: Đồng chí Nguyễn Văn T3 - Cán bộ Đội Cảnh sát bảo vệ: Trại tạm giam Công an tỉnh H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 30/6/2023, lực lượng phòng chống ma túy Công an tỉnh H phối hợp với Công an huyện H và Công an thị trấn T tiến hành tuần tra trên địa bàn. Khoảng 11 giờ 15 phút cùng ngày, tại cổng chào thuộc Tổ dân phố E, thị trấn T, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh, lực lượng chức năng phát hiện một nam thanh niên điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Dream II màu tím, không đeo biển kiểm soát có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Nam thanh niên này khai tên là Nguyễn Văn D, sinh năm 1991, trú tại thôn B, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Kiểm tra trên người D phát hiện trong túi quần dài bên phải D đang mặc trên người có 01 bơm kim tiêm và một gói giấy xanh màu đen, bên trong có một gói giấy màu trắng đựng chất bột nén màu trắng đục. Nguyễn Văn D khai nhận chất bột nén màu trắng đục là ma túy, loại Heroin của D, do Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1983, trú tại tổ dân phố E, thị trấn T cho D về để sử dụng. Xét thấy hành vi của D là vi phạm pháp luật nên lực lượng chức năng đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn D khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng ma túy, khoảng 8 giờ 30 phút ngày 30/6/2023, D điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Dream II màu tím, không đeo biển kiểm soát (xe của anh Trương Quốc C, sinh năm 1972, trú tại thôn B, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh cho Dương mượn) đi đến nhà Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1983, ở tổ dân phố E, thị trấn T, huyện H để mua ma túy. Khoảng 9 giờ 30 phút cùng ngày, thì D đến nơi. Tại đây, D mua của H một viên hồng phiến với giá 100.000đ, rồi sử dụng tại nhà H (Nguyễn Mạnh H không thừa nhận bán ma túy cho D). Sau khi sử dụng xong ma túy, D ngồi chơi tại đây. Đến khoảng gần 11 giờ cùng ngày, H đi vào phòng ngủ lấy ra một gói Heroin và một bơm kim tiêm cho D, D cất gói H3 và bơm kim tiêm vào túi quần dài bên phải đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà. Khi đi đến cổng chào thuộc Tổ dân phố E, thị trấn T, huyện H, thì bị lực lượng chức năng phát hiện bắt quả tang.
Căn cứ vào lời khai của Nguyễn Văn D, vào lúc 13 giờ 30 phút, ngày 30/6/2023, Cơ quan điều tra tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Mạnh H, thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y16 màu vàng, bên trong gắn thẻ sim số 098611xxxx, một điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh, bên trong gắn thẻ sim số 093442xxxx và một chiếc ví da màu nâu bên trong đựng 1.300.000đ (Một triệu ba trăm ngàn đồng). Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Mạnh H ở Tổ dân phố E, thị trấn T, huyện H phát hiện: Trong phòng ngủ có một đoạn ống được cuộn bằng tờ tiền mệnh giá 1000đ để trên bàn gỗ; cạnh chân bàn gỗ có 01 chai nhựa cao 18cm, trên thân chai có gắn đoạn ống bằng kim loại; cạnh chân giường có 01 chai nhựa cao 10cm, trên thân chai được đục lỗ có gắn 01 đoạn ống bằng thân tre, trên nắp chai được đục lỗ có gắn một đoạn ống bằng nhựa màu xanh dài 21cm. Trên nền đất phía sau phòng ngủ của H có 01 hộp nhựa màu trắng hình tròn, có đường kính 5,5cm bên trong có một túi ni lông trong suốt kích thước (7,5x04)cm, bên ngoài quấn vòng cao su, bên trong có 43 viên nén màu hồng(ký hiệu A1); một túi ni lông trong suốt kích thước (7,5x04)cm, bên ngoài quấn vòng cao su, bên trong có 52 viên nén màu hồng(ký hiệu A2); một túi ni lông màu trắng kích thước (4,5x4,5)cm, bên trong đựng chất bột màu trắng(ký hiệu A3) và một túi ni lông màu trắng kích thước (5,5x4,5)cm, bên bên trong đựng chất bột màu trắng(ký hiệu A4).
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Mạnh H khai nhận, số H3 nói trên H mua của Mai Văn D1, sinh năm 1974, trú tại thôn K, xã S với giá 1.000.000đ(Mai Văn D1 không thừa nhận đã bán ma túy cho H như lời khai của H) và 95 viên hồng phiến, H mua của một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể ở thị trấn P với giá 1.000.000đ. Sau đó, H đi về nhà, chia H3 và hồng phiến ra nhiều gói nhỏ, rồi cất giấu vào một hộp nhựa hình tròn để ở đầu giường trong phòng ngủ. Đến sáng ngày 30/6/2023, Nguyễn Văn D, sinh năm 1991, nhà ở thôn B, xã S đến nhà H chơi. Tại đây, H cho D 01 gói Heroin (trong số Heroin mà H đã mua trước đó). Sau đó, D đi về thì bị lực lượng chức năng bắt quả tang. Toàn bộ số ma túy bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H thu giữ nói trên là của H, do H mua về để sử dụng cho ban thân. H không thừa nhận đã bán 01 viên hồng phiến giá 100.000đ cho Nguyễn Văn D như lời khai của D.
* Tại Kết luận giám định số 651 ngày 06/7/2023 của phòng K Công an tỉnh H kết luận:
- Chất bột màu trắng đục đựng trong gói giấy màu trắng, bên ngoài là gói giấy màu xanh đen gửi giám định là ma túy, loại Hê rô in, có tên khoa học là D2, được quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất, có khối lượng 0,1817 gam.
- 43 viên nén màu hồng đựng trong túi ni long trong suốt, kích thước (7,5x04)cm, bên ngoài quấn vòng cao su(ký hiệu A1) gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 4,4525 gam.
- 52 viên nén màu hồng đựng trong túi ni long trong suốt, kích thước (7,5x04) cm, bên ngoài quấn vòng cao su (ký hiệu A2) gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 5,1060 gam.
- Chất bột nén màu trắng đựng trong túi ni lông màu trắng, kích thước (4,5x4,5)cm (ký hiệu A3) gửi giám định là ma túy, loại Hê rô in, có tên khoa học là D2, được quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất, có khối lượng 0,0776 gam.
- Chất bột nén màu trắng đựng trong túi ni lông màu trắng, kích thước (5,5x4,5)cm (ký hiệu A4) gửi giám định là ma túy, loại Hê rô in, có tên khoa học là D2, được quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất, có khối lượng 1,4762 gam. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II.C, STT 247, Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ Heroin có tên khoa học D2 là chất ma túy nằm trong Danh mục I.A, STT 9, Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.
* Vật chứng thu giữ đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, gồm:
1. 0,1817gam H, sau khi lấy mẫu giám định còn 0,1619 gam (thu giữ của Nguyễn Văn D; 9,5585 gam Methamphetamine, sau khi lấy mẫu giám định còn 8,9429 gam và 1,5538 gam Heroin, sau khi lấy mẫu giám dịnh còn 1,5088 gam (thu giữ của Nguyễn Mạnh H) cùng toàn bộ vỏ bao gói cũ được cho vào một phong bì thư màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH HÀ TĨNH, PHÒNG K, rồi dán kín, trên mép dán có chữ ký của thành phần tham gia niêm phong và đối tượng Nguyễn Văn D, Nguyễn Mạnh H.
2. Một bơm kim tiêm (thu giữ của Nguyễn Mạnh H).
3. Một xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Dream II màu tím, không đeo biển kiểm soát (thu giữ của Nguyễn Văn D).
4. Một đoạn ống được cuốn bằng tờ tiền mệnh giá 1.000đ (thu giữ của Nguyễn Mạnh H).
5. Một chai nhựa cao 18cm, trên thân chai được đục lỗ có gắn đoạn ống bằng kim loại(thu giữ của Nguyễn Mạnh H).
6. Một chai nhựa cao 10cm, trên thân chai được đục lỗ có gắn 01 đoạn ống bằng thân tre, trên nắp chai được đục lỗ có gắn một đoạn ống bằng nhựa màu xanh dài 21cm (thu giữ của Nguyễn Mạnh H).
7. Một hộp nhựa màu trắng, hình tròn có đường kính 5,5cm (thu giữ của Nguyễn Mạnh H).
8. Một điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y16 màu vàng, bên trong gắn thẻ sim số 098611xxxx, số IMEI 1:865717061453083, IMEI 2: 865717061453091(điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng)(thu giữ của Nguyễn Mạnh H).
9. Một điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh, số IMEI 1:
353141112925107, IMEI 2: 353141117925102, bên trong gắn thẻ sim số 093442xxxx(điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng) (thu giữ của Nguyễn Mạnh H).
10. Một chiếc ví da màu nâu đã qua sử dụng (thu giữ của Nguyễn Mạnh H).
11. Số tiền 1.300.000đ (Một triệu ba trăm ngàn đồng) (thu giữ của Nguyễn Mạnh H).
Tại bản Cáo trạng số 68/CT - VKS - HS ngày 23/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự và bị cáo Nguyễn Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử xử lý:
* Về hình phạt chính:
- Áp dụng: Điểm n khoản 2 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/6/2023.
- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D từ 12 đến 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/6/2023.
* Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo vì các bị cáo là lao động tự do thu nhập không ổn định.
* Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: Một đoạn ống được cuốn bằng tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng.
- Tịch thu tiêu hủy: 0,1817gam H, sau khi lấy mẫu giám định còn 0,1619 gam; 9,5585 gam Methamphetamine, sau khi lấy mẫu giám định còn 8,9429 gam và 1,5538 gam Heroin, sau khi lấy mẫu giám định còn 1,5088 gam, cùng toàn bộ vỏ bao gói cũ được cho vào một phong bì thư màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH HÀ TĨNH, PHÒNG K, rồi dán kín, trên mép dán có chữ ký của thành phần tham gia niêm phong và đối tượng Nguyễn Văn D, Nguyễn Mạnh H. Một bơm kim tiêm. Một chai nhựa cao 18cm, trên thân chai được đục lỗ có gắn đoạn ống bằng kim loại. Một chai nhựa cao 10cm, trên thân chai được đục lỗ có gắn 01 đoạn ống bằng thân tre, trên nắp chai được đục lỗ có gắn một đoạn ống bằng nhựa màu xanh dài 21cm và một hộp nhựa màu trắng, hình tròn có đường kính 5,5cm.
- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Mạnh H: Một điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y16 màu vàng, bên trong gắn thẻ sim số 098611xxxx, số IMEI 1:865717061453083, IMEI 2: 865717061453091. Một chiếc ví da màu nâu đã qua sử dụng (thu giữ của Nguyễn Mạnh H) và số tiền 1.300.000 đồng.
- Trả lại cho anh Nguyễn Chí T2: Một điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh, số IMEI 1: 353141112925107, IMEI 2: 353141117925102, bên trong gắn thẻ sim số 093442xxxx.
- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Dream II màu tím, không đeo biển kiểm soát (thu giữ của Nguyễn Văn D). Đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H, tỉnh Hà Tĩnh tiếp tục điều tra làm rõ các vấn đề khác liên quan, trả lại cho chủ sở hữu.
* Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Các bị cáo tại điểm cầu thành phần trình bày lời nói sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người giám hộ và người chứng kiến không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Tại phiên tòa một số người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người giám hộ, người chứng kiến vắng mặt không có lý do. Kiểm sát viên, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vắng mặt họ. Xét thấy những người vắng mặt đã có lời khai thể hiện trong hồ sơ và việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự để tiếp tục xét xử vụ án là có cơ sở và đúng pháp luật.
[2]. Về nội dung vụ án:
[2.1]. Về hành vi phạm tội và tội danh của các bị cáo: Hành vi của bị cáo Nguyễn Mạnh H là tàng trữ 9,5585 gam Methamphetamine và 1,5538 gam Heroin sau khi khám xét thu giữ trong nhà bị cáo, tại tổ dân phố E, thị trấn T, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh vào lúc 13 giờ 30 phút, ngày 30/6/2023, đồng thời trước đó khoảng gần 11 giờ 00 phút, bị cáo H cho bị cáo D 0,1817 gam Heroin (Tổng số Heroin Nguyễn Mạnh H tàng trữ là 1,7355 gam). Nguyễn Văn D sáng ngày 30/6/2023, điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Dream II, không đeo BKS, đi đến nhà Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1983, trú tại Tổ dân phố E, thị trấn T chơi. Tại đây, khoảng gần 11 giờ bị cáo H đi vào phòng ngủ lấy một gói có khối lượng 0,1817 gam Heroin và một bơm kim tiêm cho bị cáo D. Sau đó bị cáo D bị phát hiện và bắt quả tang ngày 30/6/2023. Hành vi của các bị cáo Nguyễn Mạnh H và Nguyễn Văn D là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý nhà nước về ma túy đồng thời gây ảnh hưởng lớn đến trật tự quản lý xã hội trên địa bàn huyện H. Lúc thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo đã chủ động hoàn toàn, lỗi của các bị cáo là lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi các bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, động cơ mục đích phạm tội là mua về sử dụng dần không có mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất.
Căn cứ vào lời khai của bị cáo tại phiên tòa và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, phản ánh Nguyễn Mạnh H là tàng trữ 9,5585 gam Methamphetamine và 1,7355 gam Heroin.Với số lượng ma túy thu được như vậy, thời gian, địa điểm và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án khẳng định được rằng hành vi của bị cáo Nguyễn Mạnh H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn D là được bị cáo H cho 0,1817 gam Heroin về sử dụng, sau khi mua bị cáo nguyễn Văn D3 chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang. Tổng số lượng ma túy mà bị cáo Nguyễn Văn D tàng trữ là 0,1817 gam Heroin. Bị cáo Nguyễn Mạnh H và Nguyễn Văn D là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại trực tiếp đến khách thể được pháp luật Hình sự Việt Nam bảo vệ đó là chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an trên địa bàn, ý thức được điều đó nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, động cơ và mục đích phạm tội là thỏa mãn nhu cầu cá nhân, không có ý thức mua đi bán lại nhằm tư lợi. Với số lượng ma túy thu được là 0,1817 gam Heroin, thời gian, địa điểm và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên khẳng định được rằng hành vi của bị cáo Nguyễn Văn D đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Cho nên bản Cáo trạng số 68/CT - VKS - HS ngày 23/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự và bị cáo Nguyễn Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai. Bên cạnh đó bị cáo Nguyễn Mạnh H đã từng bị xét xử về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo không lấy đó làm bài học răn đe bản thân mà tiếp tục phạm tội. Hội đồng xét xử xét thấy trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, xét thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, đồng thời cần có một mức hình phạt phù hợp nhằm tiếp tục răn đe, giáo dục, cải tạo các bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.
[2.2]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
[2.3]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó, cần cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo Nguyễn Mạnh H có mẹ ruột là Nguyễn Thị Đ được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng ba quy định tại khoản 2 điều 51 của Bộ luật hình sự.
[2.4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249, của Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng……toàn bộ tài sản” do đó, các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy các bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
[2.5]. Về xử lý vật chứng: Cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự để xử lý.
[3]. Đối với những người liên quan trong vụ án: Theo lời khai của Nguyễn Mạnh H, số H nói trên H mua của Mai Văn D1, sinh năm 1974, trú tại thôn K, xã S. Tuy nhiên Cơ quan điều tra đã triệu tập lấy lời khai, nhưng Mai Văn D1 không thừa nhận bán ma túy cho H, Cơ quan CSĐT đã áp dụng mọi biện pháp điều tra nhưng không chứng minh được. Do đó, không có căn cứ để xử lý hình sự đối với Mai Văn D1. Người đàn ông bán Hồng phiến cho H tại khu vực cầu P ở thị trấn P do H không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra Công an huyện H không có căn cứ để điều tra kết luận.
Đối với chiếc xe mô tô Honda, loại Dream II, không đeo BKS Nguyễn Văn D điều khiển đi lấy ma túy. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra chứng minh được chiếc xe này có BKS 36L3 - 0150, có đăng ký mang tên Lê Văn H2, sinh năm 1970, trú tại Phố E, phường Q, thành phố T, anh H2 sử dụng đến năm 2007 thì bị mất trộm. Năm 2019, anh Trương Quốc C, sinh năm 1972, trú tại thôn B, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh mua lại chiếc xe máy này của một người không quen biết, anh C không biết về nguồn gốc của chiếc xe này, quá trình anh C sử dụng, thì BKS bị rơi mất. Sáng ngày 30/6/2023, anh C cho Nguyễn Văn D mượn, nhưng không biết D mượn đi đâu, làm gì. D không nói và anh C cũng không hỏi. Do đó không có căn cứ để xử lý đối với Trương Quốc C. Vì vậy Hội đồng xét xử miễn xét.
[4]. Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H thực hành quyền công tố tại phiên tòa: Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng xử lý về hình phạt chính; Hình phạt bổ sung; Xử lý vật chứng liên quan đến vụ án và án phí như trong bản luận tội đã nêu. Căn cứ vào hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của các bị cáo và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ pháp luật nên chấp nhận và sẽ cân nhắc khi quyết định hình phạt và các vấn đề khác liên quan.
[5]. Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về hình phạt chính: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh H và bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng: Điển n khoản 2 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/6/2023.
- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/6/2023.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: Một đoạn ống được cuốn bằng tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng.
- Tịch thu tiêu hủy: 8,9429 gam Methamphetamine và 1,6707 gam Heroin, cùng toàn bộ vỏ bao gói cũ được cho vào một phong bì thư màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH HÀ TĨNH, PHÒNG K, rồi dán kín, trên mép dán có chữ ký của thành phần tham gia niêm phong và đối tượng Nguyễn Văn D, Nguyễn Mạnh H; Một bơm kim tiêm; Một chai nhựa cao 18cm, trên thân chai được đục lỗ có gắn đoạn ống bằng kim loại; Một chai nhựa cao 10cm, trên thân chai được đục lỗ có gắn 01 đoạn ống bằng thân tre, trên nắp chai được đục lỗ có gắn một đoạn ống bằng nhựa màu xanh dài 21cm và một hộp nhựa màu trắng, hình tròn có đường kính 5,5cm.
- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Mạnh H: Một điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y16 màu vàng, bên trong gắn thẻ sim số 098611xxxx, số IMEI 1:865717061453083, IMEI 2: 865717061453091; Một chiếc ví da màu nâu đã qua sử dụng (thu giữ của Nguyễn Mạnh H) và số tiền 1.300.000đ.
- Trả lại cho anh Nguyễn Chí T2: Một điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh, số IMEI 1: 353141112925107, IMEI 2: 353141117925102, bên trong gắn thẻ sim số 093442xxxx.
- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Dream II màu tím, không đeo biển kiểm soát tiếp tục giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H, tỉnh Hà Tĩnh tiếp tục điều tra làm rõ các vấn đề khác liên quan, trả lại cho chủ sở hữu.
(Tất cả vật chứng trên có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện H và Chi cục Thi hành án dân sự huyện H ngày 23/10/2023).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 6, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Mạnh H và bị cáo Nguyễn Văn D mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Trương Quốc C và bà Nguyễn Thị Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan còn lại vắng mặt, người giám hộ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 70/2023/HS-ST
Số hiệu: | 70/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về