Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 70/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 70/2022/HS-ST NGÀY 18/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 34/2022/TLST-HS ngày 26 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

1. Lưu Thị P, sinh năm 2003, tại tỉnh K. Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện G, tỉnh K; nghề nghiệp: Không có; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Văn S, sinh năm 1979 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1979; bị cáo không có chồng, có 01 con sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không.

Về nhân thân:

- Ngày 28/10/2021 bị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (theo bản án số 190/2021/HS-ST).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06 tháng 10 năm 2021 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Trần Vũ L, sinh năm 2000; trú tại: Ấp 8, xã A, thành phố C, tỉnh C, vắng mặt.

+ Ông Đặng Văn A, sinh năm 1998; trú tại: Ấp 8, xã A, thành phố C, tỉnh C, vắng mặt.

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Hồng C, sinh năm 1989; trú tại: 081C, khu phố Đ, phường B, thành phố T, tỉnh B, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 16 giờ 15 phút, ngày 23/9/2021, tại chốt kiểm soát dịch bệnh Covid 19 trước công ty giầy da Thái Bình thuộc khu phố Bình Đáng, phường Bình Hòa, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế và Ma túy Công an thành phố Thuận An phối hợp Công an phường Bình Hòa phát hiện Trần Vũ Luân, sinh năm 2000, trú tại: Ấp 8, xã An Xuyên, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau đang điều khiển xe mô tô hai bánh mang biển kiểm soát 69B1 – 596.85 chở theo Lưu Thị P, sinh ngày 04/5/2003, trú tại: Ấp Tân Thạnh, xã Tân Khánh Hòa, huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang đi qua chốt có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra. Qua kiểm tra thùng mì “Hảo Hảo” hở một đầu Phượng đang cầm trên tay, lực lượng công an phát hiện bên trong thùng mì có 01 (một) gói mì Hảo Hảo” hở một đầu bên trong có 01 (một) gói nhựa trong suốt được hàn kín hai đầu bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (nghi vấn ma túy tổng hợp). Lúc này, Phượng khai nhận là ma túy đá của Phượng, do Phượng cất giấu nhằm mục đích sử dụng. Lực lượng công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lưu Thị P cùng tang vật.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) gói nhựa trong suốt được hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng (nghi vấn ma túy tổng hợp); 01 (một) xe mô tô mang biển kiểm soát 69B1-596.85.

Quá trình điều tra Lưu Thị P khai nhận: Vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 23/9/2021, tại khu phố Hưng Lộc, phường Hưng Định, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, Phượng được một người bạn tên Long cho Phượng 01 gói ma túy, Phượng cất giấu gói ma túy trên vào bên trong thùng mì “Hảo Hảo”, sau đó nhờ Luân chở đi đến nhà bạn của Phượng tại khu vực khu dân cư 434, phường Bình Hòa để sử dụng, khi đi đến khu vực chốt kiểm soát nêu trên thì bị phát hiện bắt giữ tang vật như trên.

Tại bản Kết luận giám định số 636/MT-PC09 ngày 30/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3574 gam, loại Methamphetamine.

Tại Cáo trạng số 38/CT-VKS-TA ngày 26 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Lưu Thị P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương trình bày lời luận tội trong đó có nội dung giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lưu Thị P từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù.

Đối với Trần Vũ Luân, quá trình điều tra xác định: Ngày 23/9/2021, Luân được Phượng nhờ chở qua nhà bạn của Phượng, Luân không biết việc Phượng cất giấu ma túy trên người, nên không có căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự đối với Luân. Ngày 27/9/2021 Công an phường Bình Hòa đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đối với Trần Vũ Luân mức phạt 750.000 đồng (Bảy trăm năm mươi ngàn đồng).

Đối với người đàn ông tên Long đã cho Phượng ma túy vào ngày 23/9/2021 tại tại khu phố Hưng Lộc, phường Hưng Định, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng hiện chưa rõ nhân thân, địa chỉ của người này, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ xử lý sau.

Đối với ma túy có khối lượng sau giám định, đã được niêm phong ký hiệu 636/PC09 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương chuyển Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô mang biển kiểm soát 69B1-596.85 quá trình điều tra xác định, xe mô tô trên thuộc sở hữu hợp pháp của ông Đặng Văn Ân, sinh năm 1998, nơi cư trú: Ấp 8, xã An Xuyên, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Vào khoảng tháng 5/2021, Ân cho Trần Vũ Luân mượn xe mô tô trên để sử dụng, đến ngày 23/9/2021, Phượng nhờ Luân dùng xe mô tô trên chở Phượng đi qua nhà bạn của Phượng. Cả Luân và Vũ đều không biết việc Phượng có cất giấu ma túy trong người nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã trả lại xe mô tô trên cho Đặng Văn Ân là đúng quy định.

Trong quá trình tố tụng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến đối với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Tại phiên tòa bị cáo Lưu Thị P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố, bị cáo không có ý kiến tranh luận và bị cáo nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không khiếu nại, tố cáo về các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo tại phiên toà và tại cơ quan điều tra đều thống nhất với nhau; phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 15 phút ngày 23/9/2021, Lưu Thị P thực hiện hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, có khối lượng là 0,3574 gam, loại Methamphetamine, tại chốt kiểm soát dịch bệnh Covid 19 trước công ty giầy da Thái Bình thuộc khu phố Bình Đáng, phường Bình Hòa, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, nhằm mục đích sử dụng trái phép. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm và vi phạm pháp luật. Bị cáo thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý trực tiếp. Bản thân bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Vì vậy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý; gây tác hại xấu đến trật tự công cộng và an toàn xã hội. Bản thân bị cáo là đối tượng nghiện, để thỏa mãn cơn nghiện bị cáo mua chất ma túy về cất giấu để sử dụng. Việc mua bán, tàng trữ, vận chuyển và sử dụng trái phép chất ma túy là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội. Loại ma túy mà bị cáo sử dụng là một loại chất gây nghiện tổng hợp có nhiều tác hại cho sức khỏe con người. Hiện nay, tệ nạn hút chích ma túy đang là gánh nặng cho nhiều gia đình và xã hội. Bị cáo nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì nghiện ma túy, bị cáo vẫn cố ý phạm tội, bất chấp pháp luật và hậu quả gây ra cho xã hội. Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên trước khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét đầy đủ tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và vai trò của từng bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp.

Xét bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (theo bản án số 190/2021/HS-ST). Do đó Hội đồng xét xử sẽ áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung của hai tội.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 bi thư ghi vu số 636/PC09 là mẫu vật hoàn lại sau giám định là chất ma túy thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu huỷ.

Đối với 01 (một) xe mô tô mang biển kiểm soát 69B1-596.85 quá trình điều tra xác định, xe mô tô trên thuộc sở hữu hợp pháp của ông Đặng Văn Ân. Ông Ân và Luân đều không biết việc Phượng có cất giấu ma túy trong người nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã trả lại xe mô tô trên cho ông Ân là đúng quy định.

[9] Đối với đối tượng tên Long cho ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch, địa chỉ. Do đó, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

[10] Về án phí: Bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Điều 106; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lưu Thị P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lưu Thị P 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù của bản án số 190/2021/HS-ST ngày 28/10/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của 02 bản án là 03 (ba) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 06/3/2021.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư đã được niêm phong dán kín ký hiệu số 636/PC09 là mẫu vật hoàn lại sau giám định.

(Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 27 tháng 01 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí: Bị cáo Lưu Thị P phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 70/2022/HS-ST

Số hiệu:70/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về