TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 69/2023/HS-ST NGÀY 10/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 10 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 65/2023/TLST-HS ngày 21 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2023/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:
Phạm Ngọc D, sinh ngày 29-3-1991; tại: xã Th, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình Nơi cư trú: thôn H, xã Th, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; trình độ văn hóa:
9/12; nghề nghiệp: lao động tự do; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông : Phạm Văn Q, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị A, sinh năm 1972; bị cáo có một con sinh năm 2016; tiền án: không; tiền sự: Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 83/2020/QĐ-TA ngày 12-11-2020 của Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội đối với Phạm Ngọc D, thời gian 24 tháng (chấp hành xong ngày 07- 10-2022); nhân thân: Bản án số 127/2016/HSST, ngày 11-11-2016, Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xử miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Bản án số 67/2017/HSST ngày 29-8- 2017, Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xử phạt bị cáo D 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bản án số 73/2018/HS-ST, ngày 30-10-2018, Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xử phạt bị cáo D 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (chấp hành xong hình phạt, án phí và đều đã được xóa án tích); bị cáo tham gia quân đội nhân dân Việt Nam từ năm 2009 đến năm 2011; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07-4-2023, đến ngày 10-4-2023 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; bị cáo được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng:
1. Anh Phạm Văn V, sinh năm 1972; vắng mặt Nơi cư trú: thôn K, xã P, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
2. Ông Nguyễn Thanh S, sinh năm 1962; vắng mặt Nơi cư trú: thôn K, xã P, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 20 giờ 30 phút ngày 07-4-2023, tại trục đường thôn K, xã P, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; Công an huyện Hưng Hà phát hiện, bắt quả tang bị cáo Phạm Ngọc D có hành vi cất giấu tại túi quần bên phải, phía trước bị cáo D đang mặc 01 gói ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,1261 gam. Bị cáo D khai nhận số ma túy trên mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi (không biết họ, tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) ở khu vực ngã tư Tiên Hưng, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, mục đích để sử dụng. Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã thu giữ và niêm phong gói ma tuý trên trước sự chứng kiến của những người làm chứng: anh Phạm Văn V và ông Nguyễn Thanh S. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị cáo Phạm Ngọc D, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình không quản lý, thu giữ đồ vật, tài sản gì.
Tại bản kết luận giám định số số 510/KL-KTHS ngày 10-4-2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: mẫu trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Heroin (Heroine), có khối lượng 0,1261 gam.
Heroine STT: 09, Danh mục IA, phụ lục kèm theo Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.
Bản cáo trạng số 68/CT-VKSHH ngày 19-7-2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Phạm Ngọc D ra trước Toà án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Bị cáo Phạm Ngọc D khai nhận: do bản thân nghiện ma túy Heroine và có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 19 giờ 30 phút ngày 07-4-2023, bị cáo đi bộ từ nhà ra ngoài đường, sau đó đi nhờ xe của một người thanh niên khoảng 20 tuổi không quen biết đến khu vực ngã tư Tiên Hưng, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình mục đích mua ma túy để sử dụng. Tại khu vực ngã tư Tiên Hưng, huyện Đông Hưng bị cáo gặp một người đàn ông khoảng 30 tuổi, không biết họ tên, địa chỉ, qua nói chuyện, bị cáo biết người này bán ma túy Heroine nên bị cáo đặt vấn đề mua và đưa cho người đàn ông 200.000 đồng, người đàn ông cầm tiền và đi đâu đó khoảng 5 phút sau quay lại, đưa cho bị cáo một gói giấy tráng kim màu trắng, bị cáo biết là gói ma túy Heroine. Bị cáo cầm gói ma túy cất giấu vào túi quần bên phải phía trước của bị cáo đang mặc. Sau đó, bị cáo đi nhờ xe máy của một người nam thanh niên không quen biết về huyện Hưng Hà. Khi về đến khu vực Phố Lẻ, thuộc địa phận xã Phúc Khánh, bị cáo xuống xe đi bộ một mình để tìm nơi sử dụng ma túy, bị cáo đi đến trục đường thôn Khánh Mỹ, xã Phúc Khánh, huyện Hưng Hà thì bị tổ công tác Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình yêu cầu kiểm tra, bị cáo đã tự nguyện lấy từ túi quần bò bên phải phía trước đang mặc 01 gói giấy tráng kim màu trắng mà bị cáo vừa mua nộp cho lực lượng Công an. Công an huyện Hưng Hà đã tiến hành mở kiểm tra bên trong gói giấy tráng kim màu trắng có chứa chất bột màu trắng dạng cục, bị cáo biết đó là Heroine, sau đó Công an huyện Hưng Hà đã tiến hành niêm phong gói giấy tráng kim có chứa chất bột màu trắng dạng cục trên trước sự chứng kiến của bị cáo và một số người làm chứng.
Kiểm sát viên - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà giữ quyền công tố, sau khi phân tích nội dung vụ án, hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Phạm Ngọc D như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản Cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử (Viết tắt là HĐXX): tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Ngọc D từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 07-4-2023; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Phạm Ngọc D; áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu để tiêu huỷ toàn bộ số ma túy thu của bị cáo Phạm Ngọc D là vật chứng của vụ án, sau khi giám định được niêm phong trong 01 phong bì số 510/KL-KTHS của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Phạm Ngọc D không tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát.
Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo ân hận về hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Những người làm chứng là anh Phạm Văn V và ông Nguyễn Thanh S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt. Xét thấy tại giai đoạn điều tra, ông S và anh V đã có lời khai đầy đủ lưu trong hồ sơ vụ án nên sự vắng mặt của những người làm chứng không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Về chứng cứ xác định có tội: lời khai của bị cáo Phạm Ngọc D tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Hưng Hà lập hồi 20 giờ 45 phút ngày 07-4-2023, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Phúc Khánh, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an huyện Hưng Hà lập hồi 21 giờ 45 phút ngày 07-4-2023 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Phúc Khánh, huyện Hưng Hà; Bản kết luận giám định số 510/KL-KTHS ngày 10-4-2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Heroin (Heroine), khối lượng 0,1261 gam; Lời khai của những người làm chứng là anh Phạm Văn V và ông Nguyễn Thanh S. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: hồi 20 giờ 30 phút ngày 07-4-2023, tại đoạn đường thôn Khánh Mỹ, xã Phúc Khánh, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; bị cáo Phạm Ngọc D đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1261 gam ma túy, loại Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Ngọc D đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Điều luật quy định như sau:
Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
……………………… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
...................................
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Phạm Ngọc D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX thấy: hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mà bị cáo Phạm Ngọc D thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, hủy hoại trực tiếp sức khỏe của chính bản thân bị cáo và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác; tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc loại tội nghiêm trọng; về tình tiết tăng nặng: bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự; về tình tiết giảm nhẹ: trong giai đoạn điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có thời gian tham gia quân đội nhân dân Việt Nam nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[5] Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị kết án và phải chấp hành hình phạt tù nhưng sau khi chấp hành xong hình phạt, bị cáo không chịu tu dưỡng, cải tạo mà vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội; bị cáo có một tiền sự: bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính “Cai nghiện bắt buộc”. Do đó, cần phải xử lý nghiêm, tiếp tục cách ly bị cáo khỏi cuộc sống xã hội trong một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời góp phần phòng ngừa chung.
[6] Về hình phạt bổ sung: bị cáo tàng trữ ma tuý để sử dụng, không có mục đích vụ lợi, bản thân bị cáo là người nghiện ma tuý, không có thu nhập ổn định, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về vật chứng của vụ án: toàn bộ số ma túy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà thu giữ của bị cáo Phạm Ngọc D vào ngày 07-4-2023. Sau khi giám định, cơ quan giám định đã hoàn trả mẫu vật giám định trong phong bì niêm phong số 510/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cần tịch thu để tiêu huỷ là phù hợp quy định tại Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[8] Về nguồn gốc số ma túy bị Công an huyện Hưng Hà thu giữ ngày 07-4- 2023. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo D khai mua ở khu vực ngã tư Tiên Hưng, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình của 01 người đàn ông khoảng 30 tuổi, không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.
[9] Về án phí: bị cáo Phạm Ngọc D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: bị cáo Phạm Ngọc D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc D 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 07-4-2023.
3. Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu huỷ 0,1033gam (Không phẩy một nghìn không trăm ba mươi ba gam) mẫu vật gửi giám định và toàn bộ bao gói thu giữ của Phạm Ngọc D trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 510/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình.
Vật chứng của vụ án hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 20-7-2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
4. Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Phạm Ngọc D phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo Phạm Ngọc D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 69/2023/HS-ST
Số hiệu: | 69/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về