TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 68/2024/HS-ST NGÀY 21/02/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 73/2024/TLST-HS ngày 01 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2024/QĐXXST-HS ngày 07/02/2024 đối với bị cáo:
Tráng A T, sinh năm 1966 tại huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản P, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Mông; trình độ văn hoá: Không biết chữ; nghề nghiệp: Trồng trọt; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Tráng A C (Đã chết), con bà Giàng Thị M; vợ Giàng Thị D và 05 con;
Có 01 tiền án: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 29/HSST/2020 ngày 13/3/2020 Toà án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, chấp hành xong án phí ngày 13/3/2020, chấp hành xong hình phạt ngày 10/02/2022 (Chưa được xoá án tích).
Có 01 tiền sự: Ngày 22/01/2016 Toà án nhân dân huyện Mộc Châu áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 24 tháng. Ngày 03/6/2017 được đưa về chịu tang nhưng đã trốn không quay lại cơ sở, ngày 08/6/2017 cơ sở điều trị nghiện ma tuý tỉnh Sơn La ban hành Quyết định truy tìm học viên bỏ trốn. Ngày 01/02/2020 Công an huyện Mộc Châu ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính vi phạm quy định về cháp hành biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đến nay Tráng A T chưa chấp hành.
Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/12/2023 cho đến nay, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 15 giờ 20 phút, ngày 24/12/2023 tổ công tác Công an xã Tân Lập, huyện Mộc Châu làm nhiệm vụ tại bản Phiêng Cành, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu tiến hành kiểm tra đối với Tráng A T, qua kiểm tra phát hiện Tráng A T đang cất giấu trong người 01 gói nilon màu hồng bên trong đựng cục chất bột màu trắng nghi là ma tuý, loại Heroine, Tráng A T khai đó là ma túy của T tàng trữ để sử dụng. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong vật chứng để điều tra, làm rõ.
Ngày 24/12/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La tiến hành xác định khối lượng cục chất bột màu trắng thu giữ của Tráng A T được 0,18 gam, lấy toàn bộ làm mẫu trưng cầu giám định, mẫu có ký hiệu T.
Tại Kết luận giám định số 135 ngày 26/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:“Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma túy; loại Heroine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,18 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,18 gam; loại Heroine.
Quá trình điều tra Tráng A T khai nhận: Bản thân nghiện chất ma túy, ngày 24/12/2023 Tráng A T đi bộ từ nhà đến khu vực bản Phiêng Cành, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu gặp và hỏi mua được 01 gói Heroine với giá 50.000 đồng của một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết, mục đích để sử dụng, có được ma túy Tráng A T cất giấu trong túi áo rồi đi về thì bị tổ công tác kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng nêu trên.
Cáo trạng số 22/CT-VKS ngày 31 tháng 01 năm 2024 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La truy tố Tráng A T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Tráng A T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và áp dụng các căn cứ pháp luật như sau:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Tráng A T từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.
- Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì còn nguyên niêm phong, bên trong đựng mảnh nilon màu hồng và phong bì niêm phong ban đầu; 01 phong bì đựng Test thử ma túy của Tráng A T .
Về án phí: Bị cáo Tráng A T phải chịu án phí theo quy định.
Sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm xử lý các vấn đề của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí và không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát.
Bị cáo có lời nói sau cùng xin được giảm nhẹ mức hình phạt và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Công an xã Tân Lập, Công an huyện Mộc Châu, Cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Tráng A T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan Điều tra. Số ma túy bị thu giữ là Heroine có khối lượng 0,18 gam, nguồn gốc do bị cáo mua của người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết mục đích để sử dụng cho bản thân, trên đường về bị phát hiện, bắt giữ.
Xét lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do tổ công tác Công an xã Tân Lập, huyện Mộc Châu lập hồi 15 giờ 20 phút, ngày 24/12/2023; biên bản thu giữ vật chứng, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định, bản kết luận giám định số 135 ngày 26/12/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận là chất ma túy, loại Heroine. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ của cơ quan điều tra đã thu thập được trong hồ sơ.
[3] Về khung hình phạt áp dụng: Bị cáo tàng trữ khối lượng 0,18 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân, do đó Tráng A T đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 29/HSST/2020 ngày 13/3/2020 Toà án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, đến thời điểm phạm tội mới chưa được xóa án tích nên vi phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Về nhân thân: Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, đã bị đưa vào cở sở cai nghiện bắt buộc, nhưng bỏ trốn chưa chấp hành xong Quyết định. Xét tính chất, mức độ của tội phạm, cần thiết phải xử phạt tù và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội và làm tốt công tác răn đe, phòng ngừa chung.
[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình điều tra và xét hỏi công khai tại phiên tòa thấy rằng bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo là phù hợp.
[5] Về vật chứng:
Đối với: 01 phong bì còn nguyên niêm phong, bên trong đựng mảnh nilon màu hồng và phong bì niêm phong ban đầu; 01 phong bì đựng Test thử ma túy của Tráng A T. Xét là vật không còn giá trị sử dụng. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Về các vấn đề khác:
Đối với người phụ nữ dân tộc Mông đã bán ma túy cho Tráng A T như T khai nhận, quá trình điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ nên Cơ quan điều tra huyện Mộc Châu không có căn cứ để điều tra làm rõ. Do đó, buộc T phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số ma túy bị thu giữ.
[7] Về án phí: Bị cáo Tráng A T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
[8] Thời hạn tạm giam của bị cáo còn dưới 45 ngày do đó Hội đồng xét xử ra Quyết định tạm giam 45 ngày đối với bị cáo để đảm bảo thi hành án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Tráng A T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Tráng A T 33 (Ba mươi ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/12/2023.
Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.
2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì còn nguyên niêm phong, bên trong đựng mảnh nilon màu hồng và phong bì niêm phong ban đầu; 01 phong bì đựng Test thử ma túy của Tráng A T.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1, khoản 3 Điều 21, điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Tráng A T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm 4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 21/02/2024).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 68/2024/HS-ST
Số hiệu: | 68/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về