TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 68/2023/HS-ST NGÀY 16/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 8 năm 2023, tại Trụ sở UBND xã Hợp Lý, Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 61/2023/TLST-HS ngày 11 tháng 7 năm 2023. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2023/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 8 năm 2023 đối với các bị cáo:
1/ Nguyễn Văn T, sinh ngày 13/10/1985 tại tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Thôn B, xã H, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Tr và bà Nguyễn Thị V; có vợ là Hoàng Thị D và 02 con (con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2013); tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
+ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 27/QĐ-CPHC ngày 14/02/2020, Công an huyện Lập Thạch xử phạt Nguyễn Văn T 1.500.000đ về hành vi Sử dụng trái phép tài sản. Đến nay đã được xóa tiền sự.
+ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 047/QĐ-CPHC ngày 07/01/2021 Công an huyện Lập Thạch xử phạt Nguyễn Văn T 750.000đ về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy. Đến nay đã được xóa tiền sự.
Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 29/3/2023, tạm giam từ ngày 04/4/2023 (có mặt);
2/ Nguyễn Anh T1, sinh ngày 14/5/1995 tại tỉnh Tuyên Quang; nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thành Đ (đã chết) và bà Nguyễn Thị M; vợ, con: Không; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Bản án số 112/2012/HSST ngày 24/10/2012, Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang xử phạt Nguyễn Anh T1 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 01 năm về tội “Không tố giác tội phạm”. T1 đã chấp hành xong bản án trên, đến nay đã được xóa án tích.
Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 29/3/2023, tạm giam từ ngày 04/4/2023 (có mặt);
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Phạm Đức T, sinh năm 1988; trú tại: Thôn Quyết Thắng, xã Sơn N, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt);
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 13h30’ ngày 29/3/2023, Nguyễn Anh T1 một mình điều khiển xe mô tô gắn biển kiểm soát 22K1-X đi từ nhà đến nhà Nguyễn Văn T mục đích để mua ma túy về sử dụng. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, khi T1 đi đến Thôn B, xã H, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc thì gặp T đang đứng chơi một mình ở ngoài đường bê tông liên thôn cách nhà T khoảng 500m. Tại đây, T1 hỏi mua của T 400.000đ ma túy đá và ma túy ngựa, do không có tiền nên T1 dùng chiếc điện thoại di động Iphone 7 plus của mình đưa cho T để trao đổi mua bán ma túy thì T đồng ý. T cầm điện thoại và cất vào túi quần bên phải T đang mặc đồng thời lấy ra 01 gói ma túy đưa cho T1. T1 cầm gói ma túy và cất giấu vào túi quần bên trái phía trước T1 đang mặc rồi điều khiển xe đi tìm nơi sử dụng. Khi T1 đi đến đoạn đường dân sinh thuộc thôn B1, xã B, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc thì bị lực lượng Công an tỉnh Vĩnh Phúc kiểm tra, phát hiện và thu giữ vật chứng gồm: thu tại túi quần bên trái phía trước T1 đang mặc 01 gói nhỏ bằng giấy, mặt bên ngoài màu trắng, mặt bên trong màu vàng, bên trong gói nhỏ có chứa chất tinh thể dạng đá màu trắng và 02 viên nén màu đỏ, một mặt của mỗi viên nén có ký tự “WY” (Niêm phong ký hiệu A1) – T1 khai nhận đây là gói ma túy đá và ma túy ngựa của T1 vừa mua được của T mục đích để sử dụng; thu 01 xe mô tô gắn biển kiểm soát 22K1-X.
Căn cứ lời khai của Nguyễn Anh T1, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành triệu tập Nguyễn Văn T đến trụ sở Công an xã H, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc làm việc. Quá trình làm việc, T khai nhận hành vi bán trái phép cho T1 01 gói ma túy đá và ma túy ngựa vào khoảng 14 giờ cùng ngày và giao nộp các vật chứng gồm: 01 túi nilon bên trong có 26 viên nén màu đỏ, trên một mặt của mỗi viên nén đều có chứa ký tự “WY” và 01 túi nilong bên trong có chứa các tinh thể dạng đá màu trắng (niêm phong ký hiệu A2) - T khai nhận đây là ma túy ngựa và ma túy đá của T tàng trữ mục đích để bán; Thu của T 03 điện thoại di động ( 01 điện thoại Iphone 7 plus màu đen, 01 điện thoại Iphong 6 màu xám, 01 điện thoại Iphone 8 màu đỏ đen) - T khai nhận trong đó chiếc điện thoại di động Iphone 7 plus là của T1 dùng để trao đổi mua ma túy của T.
Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở, đồ vật của Nguyễn Văn T tại Thôn B, xã H, huyện L. Kết quả: không phát hiện thu giữ gì.
Tại Bản kết luận giám định số 842/KLGĐ ngày 01/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận:
1. Tinh thể dạng đá có trong mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1841g (không phảy một tám bốn một gam, không kể bao bì) loại Methamphetamine.
2. 02 (Hai) viên nén hình trụ tròn màu đỏ có trong mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,1818g (không phảy một tám một tám gam, không kể bao bì) loại Methamphetamine.
3. Tinh thể dạng đá có trong mẫu ký hiệu A2 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1120g (không phảy một một hai không gam, không kể bao bì) loại Methamphetamine.
4. 26 (Hai mươi sáu) viên nén hình trụ tròn màu đỏ có trong mẫu ký hiệu A2 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 2,3149g (hai phảy ba một bốn chín gam, không kể bao bì) loại Methamphetamine.
Về nguồn gốc 01 gói ma túy T bán cho T1 và số ma túy thu giữ của T, T khai nhận là do T mua của một người đàn ông (T không biết tên tuổi, địa chỉ, lai lịch của người này) ở khu vực tỉnh Bắc Ninh với số tiền 1.200.000đ vào ngày 26/3/2023 mục đích để bán kiếm lời.
Về vật chứng thu giữ: Mẫu A1=0,3659g methamphetamine, A2=2,4269g methamphetamine, cơ quan giám định hoàn lại mẫu A1= 0,2311g mẫu, A2= 1,6443g mẫu cùng toàn bộ bao gói; 03 điện thoại thu giữ của T; 01 xe mô tô, loại xe Honda, số máy HC12E0220236, số khung RLHHC12008Y604688, nhãn hiệu Honda, gắn biển kiểm soát 22K1-X.
Trong quá trình điều tra, Nguyễn Văn T và Nguyễn Anh T1 đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Ngoài lần phạm tội này, T không bán ma túy cho ai lần nào khác.
Bản Cáo trạng số 59/CT-VKS ngày 15/6/2023, Viện kiểm sát nhân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự và bị cáo Nguyễn Anh T1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn T và Nguyễn Anh T1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Văn T và Nguyễn Anh T1 đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo Nguyễn Anh T1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Văn T từ 03 năm 06 tháng đến 03 năm 09 tháng tù; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Anh T1 từ 01 năm 05 tháng đến 01 năm 08 tháng tù, không phạt bổ sung, đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.
Các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như luận tội của đại diện Viện kiểm sát.
Bị cáo Nguyễn Văn T nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là sai trái, hiện nay bị cáo đang phải nuôi hai con nhỏ, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về làm công dân tốt.
Bị cáo Nguyễn Anh T1 nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là sai, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lập Thạch, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn T và Nguyễn Anh T1 đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân huyện Lập Thạch đã truy tố. Xét lời nhận tội của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định…. và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 29/3/2023, tại khu vực đường bê tông liên thôn thuộc Thôn B, xã H, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc, Nguyễn Văn T có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Anh T1 với giá 400.000 đồng, do Nguyễn Anh T1 không có tiền nên đã đưa cho Nguyễn Văn T 01 điện thoại di động để mua ma túy và Nguyễn Anh T1 cầm ma túy đi sử dụng thì bị Công an tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện bắt quả tang. Thu giữ trên người Nguyễn Anh T1 01 gói ma túy có khối lượng 0,1841gam loại Methamphetamine và 02 viên nén ma túy có khối lượng là 0,1818gam loại Methamphetamine, ngoài ra còn thu giữ của T 01 xe mô tô gắn biển kiểm soát 22K1-X. Sau đó Công an làm việc với Nguyễn Văn T và T đã giao nộp 26 viên nén ma túy có khối lượng 2,3149gam loại Methamphetamine, 01 túi nilong ma túy có khối lượng 0,112gam loại Methamphetamine và 03 điện thoại di động.
Hành vi mua bán trái phép chất ma túy do bị cáo Nguyễn Văn T thực hiện đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy do bị cáo Nguyễn Anh T1 thực hiện đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự Tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy… thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
…c, Heroine …có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.
“Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý Nhà nước về ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Ma tuý là tệ nạn cần phải loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội vì nó làm xói mòn đạo đức, lối sống của một bộ phận thanh niên, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Vì vậy việc đưa bị cáo ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật là cần thiết nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo là những thanh niên có sức khỏe nhưng không chịu làm ăn lương thiện mà lao vào con đường phạm tội, bản thân các bị cáo đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính và bị đưa ra xét xử đó là: Ngày 14/02/2020, Công an huyện Lập Thạch xử phạt vi phạm hành chính đối với T về hành vi Sử dụng trái phép tài sản; ngày 07/01/2021, Công an huyện Lập Thạch xử phạt vi phạm hành chính đối với T về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy; ngày 24/10/2012, Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang xử phạt Nguyễn Anh T1 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội Không tố giác tội phạm, mặc dù các lần xử phạt trên các bị cáo đã được xóa tiền sự, xóa án tích nhưng các bị cáo không lấy đó làm bài học để cải tạo bản thân, nay thực hiện hành vi phạm tội. Do đó cần áp dụng hình phạt tù thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục cải tạo các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
Từ những phân tích, đánh giá nêu trên thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù một thời gian phù hợp mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.
[4]. Về việc áp dụng hình phạt bổ sung: Việc mua bán trái phép chất ma túy mà bị cáo Nguyễn Văn T thực hiện vì mục đích thu lợi và việc tàng trữ trái phép chất ma túy mà bị cáo Nguyễn Anh T1 thực hiện là để bị cáo sử dụng ma túy, các bị cáo T và T1 chưa đem nguồn lợi gì cho gia đình, bản thân các bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản gì lớn nên không cần thiết phải phạt các bị cáo một khoản tiền sung quỹ Nhà nước.
[5]. Về xử lý vật chứng: Mẫu A1= 0,2311g, A2= 1,6443g cùng toàn bộ bao gói sau giám định cần tịch thu tiêu huỷ;
Đối với 01 chiếc điện thoại Iphone 7 plus là công cụ T và T1 dùng để trao đổi, mua bán ma túy với nhau nên cần tịch thu bán sung quỹ nhà nước;
Đối với 02 điện thoại (01 điện thoại Iphone 6 và 01 điện thoại Iphone 8) là tài sản cá nhân của T không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho T nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Đối với 01 xe mô tô, loại xe Honda, số máy HC12E0220236, số khung RLHHC12008Y604688, nhãn hiệu Honda, gắn biển kiểm soát 22K1-X. Quá trình điều tra xác định là của anh Phạm Đức T. Anh Tr cho T1 mượn chiếc xe này làm phương tiện đi lại và không biết T1 dùng để đi mua ma túy cần trả lại cho anh Tr. Đối với chiếc biển kiểm soát 22K1-X gắn theo xe, anh Tr khai nhặt được ở đường, qua kết quả xác minnh không thuộc vật chứng trong vụ án khác và không có trong hệ thống dữ liệu đăng ký xe nên cần tịch thu tiêu hủy.
[6]. Án phí hình sự sơ thẩm các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo Nguyễn Anh T1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng: Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 29/3/2023.
Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T1 01 (Một) năm 05 (Năm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 29/3/2023.
- Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy: Mẫu A1= 0,2311g, A2= 1,6443g cùng toàn bộ bao gói.
Tịch thu bán sung quỹ Nhà nước của Nguyễn Văn T 01 chiếc điện thoại Iphone 7 plus.
Trả lại Nguyễn Văn T: 01 điện thoại Iphone 6 và 01 điện thoại Iphone 8 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/7/2023 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lập Thạch và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lập Thạch).
- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo Nguyễn Văn T và Nguyễn Anh T1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 68/2023/HS-ST
Số hiệu: | 68/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về