Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 68/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG TÈ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 68/2021/HSST NGÀY 13/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 13 tháng 08 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 69/2021/TL-ST-HS, ngày 02 tháng 07 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2021/QĐXXST-HS, ngày 30 tháng 07 năm 2021 đối với bị cáo.

1. Lỳ Hu P - Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không - Sinh năm 1992, tại xã Thu Lũm, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT: Bản Gò K, xã Thu L, huyện Mường T, tỉnh Lai C; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Làm ruộng (trồng trọt); Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: Hà Nhì; Tôn giáo: Không; Đảng, đoàn: Không; Con ông Lỳ Lý C - Sinh năm 1976 và con bà Phùng Xá L - Sinh năm 1974; Vợ: Lỳ Lé D - Sinh năm 1993; Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân chưa bị xử lý; Bị bắt, bị tạm giữ từ ngày 09/03/2021 đến ngày 18/03/2021 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú - có mặt tại phiên tòa.

2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Lỳ Lé D - Sinh năm 1993 - Trú tại: Bản Gò K, xã Thu L, huyện Mường T, tỉnh Lai C - Vắng mặt.

3. Người bào chữa cho bị cáo Lỳ Hu P: Bà Nguyễn Thị N - Trợ giúp viên pháp lý của trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lai Châu - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 09/03/2021 Lỳ Hu P điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA, nhãn hiệu Blade màu đỏ đen, không có biển kiểm soát, đi từ bản Gò K xuống khu vực bản Nậm P, xã Mường T, huyện Mường T, tỉnh Lai C, mục đích đi mua ma túy về sử dụng. Đến 13 giờ 30 phút cùng ngày khi đến khu vực bản Nậm P, P gặp một người đàn ông dân tộc La Hủ, qua trao đổi P nhờ người đàn ông này mua hộ ma túy với số tiền 1.500.000 đồng, đồng thời còn đưa thêm cho người đàn ông này 50.000 đồng để trả công, P dặn một nửa tiền mua thuốc phiện và một nửa tiền mua Heroine, người đàn ông này cầm tiền rồi đi vào trong bản Nậm P, được khoảng 30 đến 40 phút người đàn ông quay lại đưa cho P, 01 (một) gói thuốc phiện được gói bằng mảnh nilon màu xanh và 01 (một) gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu hồng, P cất số ma túy vào túi áo khoác bên trái đang mặc trên người rồi điều khiển xe mô tô quay về nhà. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày khi P đi đến khu vực trung tâm bản Tù N, xã Ka L thì bị tổ công tác Đồn biên phòng Ka L phối hợp với đồng biên phòng Thu L, huyện Mường T phát hiện và bắt quả tang, lập biên bản thu gữi 02 (hai) gói ma túy như trên; 01 (Một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA nhãn hiệu BLADE màu đỏ đen, không có biển kiểm soát của Lỳ Hu P.

Tại bản kết luận giám định tư pháp số: 28/KLGĐ ngày 10/03/2021 của người giám định tư pháp theo vụ việc Công an huyện Mường Tè kết luận: 01 (một) gói chất nhựa dẻo, màu nâu đen, có mùi hắc có khối lượng là 17,48 gam;

01 (một) gói chất bột khô, màu trắng có khối lượng 3,88 gam.

Tại bản kết luận giám định số: 299/GĐ-KTHS ngày 15/03/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai C kết luận: 01 (một) mẫu chất nhựa dẻo, màu nâu đen, có mùi hắc gửi giám định là ma túy, loại thuốc phiện; 01 (một) mẫu chất bột khô, màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine.

Tại bản cáo trạng số: 40/CT-VKS-MT ngày 30 tháng 06 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T truy tố Lỳ Hu P về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, tại phiên tòa hôm nay vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lỳ Hu P phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Áp dụng Điều 38; Điều 50; điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lỳ Hu P từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47/ Bộ luật hình sự, điểm a, điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên: Tịch thu tiêu hủy 15,54 gam thuốc phiện và 2,6 gam Heroine; 01(một) mảnh ni lon màu xanh và 01 (một) mảnh nilon màu hồng; Trả lại 01 (Một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA BLADE màu sơn đỏ đen, không có biển kiểm soát cho gia đình bị cáo.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo, do hoàn cảnh gia đình của bị cáo khó khăn.

- Về án Phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UNTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại bản luận cứ bào chữa, sau khi phân tích tính chất, hành vi, mức độ phạm tội, nhân thân của bị cáo, người bào chữa có cùng quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T về tội danh "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự; Xử lý vật chứng; Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. sau khi tranh luận Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm về mức hình phạt đã đề nghị.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa việc bị cáo khai báo là hoàn toàn tự nguyện, không bị mớm cung, ép cung, bị cáo không khiếu nại gì về quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, bị cáo không có ý kiến gì tranh luận, nhất trí với bản luận tội và đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được cơ quan tiến hành tố tụng thu thập có trong hồ sơ vụ án như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Vào hồi 16 giờ 30 phút ngày 09/03/2021 Lỳ Hu P đã tàng trữ trái phép 17,48 gam chất ma túy, loại thuốc phiện và 3,88 gam chất ma túy loại Heroine, để sử dụng. Tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng của thuốc phiện và Heroine mà bị cáo tàng trữ so với mức tối thiểu của thuốc phiện và Heroine quy định tại điểm e, điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là 81,096% (dưới 100%). Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T đã truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội, bị cáo không khiếu nại gì đối với các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do vậy hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.

[2]. Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương, bị cáo hiểu được điều đó nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra nhằm cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội và gia đình. Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[3]. Đề nghị của kiểm sát viên, người bào chữa về tội danh, điều luật áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự; Xử lý vật chứng điểm a, khoản 1 Điều 47/ Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Miễn án phí hình sự sơ thẩm điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án cho bị cáo là đúng quy định pháp luật nên cần chấp nhận.

[4]. Về tình tiết tăng nặng xét bị cáo Lỳ Hu P không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5]. Về tình tiết giảm nhẹ, trong quá trình điều tra, truy tố, bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự (Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải). Xét thấy cáo là người dân tộc thiểu số Hà Nhì, nhận thức pháp luật hạn chế, bản thân không có thu nhập ổn định, chưa có tiền án, tiền sự, gia đình thuộc hộ nghèo của xã Thu L, huyện Mường T là xã biên giới có hoàn cảnh kinh tế, xã hội khó khăn. Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6]. Về nhân thân bị cáo Lỳ Hu P có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, từ nhỏ được bố mẹ nuôi cho ăn học hết lớp 08/12, lớn lên sinh sống tại địa phương, bản thân là người sử dụng chất ma túy, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện, để có chất ma túy sử dụng bị cáo đã cố ý phạm tội.

[7]. Về hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, Xét thấy cáo là người dân tộc thiểu số Hà Nhì, nhận thức pháp luật hạn chế, bản thân không có thu nhập ổn định, chưa có tiền án, tiền sự, gia đình thuộc hộ nghèo của xã Thu L, huyện Mường T là xã biên giới có hoàn cảnh kinh tế, xã hội khó khăn. Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự cho bị cáo.

[8]. Về xử lý vật chứng: điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47/ Bộ luật hình sự. Tịch thu tiêu hủy 15,54 gam thuốc phiện và 2,6 gam Heroine; 01(một) mảnh ni lon màu xanh và 01 (một) mảnh nilon màu hồng.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA BLADE màu sơn đỏ đen, không có biển kiểm soát, mà bị cáo Lỳ Hu P sử dụng vào việc đi mua chất ma túy. Trong quá trình điều tra và tại phiên Tòa đã xác định được đây là tài sản chung của gia đình bị cáo và người quản lý hợp pháp của tài sản là chị Lỳ Lé D (vợ của bị cáo). Hội đồng xét xử xét thấy việc trả lại tài sản không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án, không phải là vật chứng, căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, trả lại chiếc xe máy này cho người quản lý hợp pháp là chị Lỳ Lé D - Sinh năm 1993, trú tại: Bản Gò K, xã Thu L, huyện Mường T, tỉnh Lai C.

[9]. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135/Bộ luật tố tụng hình sự; Xét thấy cáo là người dân tộc thiểu số Hà Nhì, nhận thức pháp luật hạn chế, bản thân không có thu nhập ổn định, gia đình thuộc hộ nghèo của xã Thu L, huyện Mường T là xã biên giới có hoàn cảnh kinh tế, xã hội khó khăn. Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

[10]. Đối với người đàn ông dân tộc La Hủ đã đi mua hộ Heroine và thuốc phiện cho Lỳ Hu P, nhưng bị cáo không biết tên tuổi, địa chỉ. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch của đối tượng này. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo: Lỳ Hu P phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Căn cứ vào Điều 38; Điều 50; điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Lỳ Hu P: 02(hai) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" được trừ thời gian tạm giữ là 09 (Chín) ngày từ ngày 09/03/2021 đến ngày 18/03/2021, Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày đi chấp hành án.

- Áp dụng điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47/ Bộ luật hình sự, điểm a, điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên: Tịch thu tiêu hủy 15,54 gam thuốc phiện và 2,6 gam Heroine; 01(một) mảnh ni lon màu xanh và 01 (một) mảnh nilon màu hồng; Trả lại 01 (Một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA BLADE màu sơn đỏ đen, không có biển kiểm soát cho chị Lỳ Lé D - Sinh năm 1993, trú tại: Bản Gò K, xã Thu L, huyện Mường T, tỉnh Lai C.

- Áp dụng khoản 2 Điều 135/Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm số tiền 200.000 đỗng cho bị cáo Lỳ Hu P.

- Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 68/2021/HSST

Số hiệu:68/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về