Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 67/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHƯỚC LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 67/2023/HS-ST NGÀY 05/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 12 năm 2023 tại Tòa án nhân dân thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 71/2023/TLST-HS ngày 27 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88/2023/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2023, đối với bị cáo:

Cù Ngọc N, sinh năm 1999 tại Bình Phước;

Nơi cư trú: Thôn 3, xã K, huyện G, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hoá (học vấn) 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Cù Ngọc Tr và bà Lê Thị M; Chưa có vợ, con; Tiền án: Không;

Tiền sự: Ngày 14/9/2020, bị Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Bình Phước áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng, đã chấp hành xong ngày 16/9/2022; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/7/2023 cho đến nay; Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị M, sinh năm 1978, trú tại: Thôn 3, xã K, huyện G, tỉnh Bình Phước. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ ngày 24/7/2023, bị cáo N đang điều khiển xe mô tô trên đường về nhà, khi đến đoạn cầu Sông Bé thuộc thôn Bình Tân, xã K, huyện G thì thấy một thanh niên không rõ nhân thân lai lịch giống người nghiện ma tuý nên hỏi mua ma tuý, người thanh niên đồng ý bán. Lúc này, bị cáo N đưa cho người thanh niên 500.000 đồng, người thanh niên ném một gói nylon chứa chất ma tuý xuống đất rồi bỏ đi. Sau đó bị cáo N nhặt gói nylon chứa ma tuý lên gói vào một tờ giấy bạc rồi điều khiển xe qua xã Phước Tín, thị xã Phước Long để tìm nơi sử dụng ma tuý. Khi đi đến đoạn đường ĐT759 thuộc thôn Phước Thiện, xã Phước Tín thì bị lực lượng Công an xã đang tuần tra yêu cầu dừng xe để kiểm tra, lúc này gói nylon chứa chất ma tuý trong tay bị cáo rớt xuống đất bị Công an phát hiện, N khai nhận đó là ma tuý vừa mua để sử dụng. Do đó, Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với N về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý và niêm phong vật chứng, thu giữ 01 xe mô tô hiệu Honda Wave màu trắng biển kiểm soát 93T8 – xxxx.

Theo kết luận giám định số 805/KL-KTHS ngày 28/7/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,6728 gam.

Ngày 28/7/2023, Cù Ngọc N bị khởi tố bị can để điều tra.

Bản cáo trạng số 71/CT-VKS ngày 27/10/2023, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long đã truy tố Cù Ngọc N về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát thực hiện quyền công tố tại phiên tòa giữ N quan điểm truy tố bị cáo N về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy; bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào, có 01 tiền sự, có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, cha mất và có 02 em nhỏ.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; các điều 32, 38, 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, tuyên bị cáo N phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy và xử phạt bị cáo N từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù.

Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong là 0,5703 gam.

Đối với xe mô tô Honda Wave màu trắng biển kiểm soát 93T8 – xxxx là xe của bà Lê Thị M mua từ người không rõ nhân thân lai lịch vào năm 2020 nhưng không làm thủ tục do mất giấy tờ xe, cho bị cáo N mượn để đi chơi và hiện nay số khung của xe bị mờ, Công an thị xã Phước Long đã ra quyết định trưng cầu giám định nhằm xác định chủ sở hữu nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phước Long đã tách ra xử lý sau đối với chiếc xe trên nên không đề nghị gì.

Đối với thanh niên bán ma tuý cho N, không rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phước Long đã tách ra xử lý sau.

- Bị cáo N tự bào chữa: Thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố và không có ý kiến tranh luận.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về phụ mẹ già chăm sóc hai em còn nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Phước Long, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được và kết luận giám định trong quá trình điều tra, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Ngày 24/7/2023, bị cáo N đã có hành vi cất giữ trái phép 0,6728 gam ma túy loại Methamphetamine trên người nhằm mục đích sử dụng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức rõ hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do đó, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, Viện kiểm sát truy tố và luận tội bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào; không có tiền án, có 01 tiền sự bị Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Bình Phước áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng vào năm 2020, mới chấp hành xong trở về địa phương lại tiếp tục tàng trữ ma tuý để sử dụng trái phép, vẫn không thể từ bỏ được ma tuý. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy việc áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo khỏi xã hội là cần thiết.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, hoàn cảnh gia đình có mẹ già, em nhỏ, cha mất sớm, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự và được xem xét khi quyết định mức hình phạt cho bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong là 0,5703 gam, do đây là chất cấm.

Đối với xe mô tô Honda Wave màu trắng biển kiểm soát 93T8 – xxxx là xe của bà Lê Thị M mua từ người không rõ nhân thân lai lịch vào năm 2020 nhưng không làm thủ tục do mất giấy tờ xe, cho bị cáo N mượn để đi chơi và hiện nay số khung của xe bị mờ, Công an thị xã Phước Long đã ra quyết định trưng cầu giám định nhằm xác định chủ sở hữu nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phước Long tách ra xử lý sau đối với chiếc xe trên nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo N, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phước Long đã tách ra tiếp tục xác M, xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Quan điểm của Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật, phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được ghi nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các điều 38, 50 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố bị cáo Cù Ngọc N phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Cù Ngọc N 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/7/2023.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định là 0,5703 gam để trong 01 phong bì niêm phong số 805 ngày 28/7/2023.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/11/2023).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (05/12/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 67/2023/HS-ST

Số hiệu:67/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phước Long - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về