Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 67/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 67/2023/HS-ST NGÀY 30/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 65/2023/TLST- HS, ngày 26 tháng 10 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Huỳnh Văn N (N Út) – Sinh ngày 15-10-1990, tại Ninh Thuận; Nơi cư trú: Thôn N, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: N; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt N; Con ông: Huỳnh Văn C (Đã chết) và bà Võ Thị S, sinh năm 1954; Chưa vợ, con; Anh chị em ruột: Có 07 người, lớn nhất sinh năm 1977, nhỏ nhất sinh năm 1993, bị cáo là con thứ sáu trong gia đình.

Tiền án: Ngày 11/01/2022, bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành án tại Trại giam Sng Cái đến ngày 20-10-2022 chấp hành xong.

Tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 21-12-2007, bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận xử phạt 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo Bản án số 60/HS-ST, đã chấp hành xong hình phạt;

- Ngày 22-9-2009 bị Công an xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận xử phạt Cảnh cáo về hành vi gây rối, làm hư hỏng tài sản của người khác;

- Ngày 09-02-2010 bị UBND xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã;

- Ngày 13-01-2011 bị Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo bản án số 02/HSPT; chấp hành xong hình phạt;

- Ngày 16-12-2014 bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận xử phạt 30 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo bản án số 41/HSST; chấp hành xong hình phạt;

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 14-8-2023, tại khu vực phía trước cửa hàng Viettel Post thuộc khu phố x, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận, Tổ tuần tra Công an huyện N phát hiện Huỳnh Văn N điều khiển xe mô tô biển số 85E1 - X đi một mình, có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng phương tiện kiểm tra. Do bản thân N là người nghiện chất ma túy và đang cất giấu chất ma túy trong túi áo khoác bên trái nên khi thấy lực lượng Công an thì N lấy số ma túy đang cất giấu gồm: 01 (Một) túi nylon hàn kín hai đầu bên trong có chứa tinh thể màu trắng dạng rắn (ký hiệu M1), 01 (Một) túi nylon dạng túi Zip bên trong có 02 (Hai) túi nylon hàn kín hai đầu bên trong có chứa tinh thể màu trắng dạng rắn (ký hiệu M2) ném xuống nền đường nhựa sát dưới xe mô tô N đang điều khiển để phi tang nhưng bị Tổ tuần tra phát hiện, tạm giữ. Qua làm việc, Huỳnh Văn N khai nhận chất tinh thể màu trắng dạng rắn trong các túi nylon là ma túy dạng “đá” của N mua của một người đàn ông tên Lộc, khoảng 33 tuổi ở khu vực xóm 7, xã Vĩnh Tân, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận với giá 1.200.000 đồng về để sử dụng nên bị Tổ tuần tra tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Huỳnh Văn N về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, tạm giữ tang vật, phương tiện có liên quan để điều tra, xử lý theo quy định pháp luật.

Tại Bản kết luận giám định số 183/KL- KTHS ngày 21-8-2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận kết luận:

Chất tinh thể trắng (ký hiệu M1, M2) gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là:

M1 : 0,4525g (Không phẩy bốn năm hai năm gam);

M2: 2,4370g (Hai phẩy bốn ba bảy không gam).

- Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

+ Tình tiết tăng nặng: Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm”, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

+ Tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo. Ngoài ra bị cáo còn có thân nhân là ông Huỳnh Văn Chẻo, bà Nguyễn Thị Biếu là những người có công với cách mạng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Đối với người tên “Lộc” bán ma túy cho Huỳnh Văn N: Xét thấy hành vi của “Lộc” có dấu hiệu của tội mua bán trái phép chất ma túy, xảy ra trên địa bàn huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã thông báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận để điều tra xử lý theo thẩm quyền là đúng quy định.

- Về vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ công cụ, phương tiện dùng vào việc tàng trữ trái phép chất ma túy gồm:

+ Khối lượng mẫu M1 là 0,3624g (Không phẩy ba sáu hai bốn gam), M2 là 2,2361g (Hai phẩy hai ba sáu một gam), cùng toàn bộ bao gói gửi giám định hoàn lại theo Kết luận giám định số 183/KL-KTHS ngày 21/8/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận. Đề nghị tịch Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy;

+ 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, số IMEI: 358710330498074, số IMEI 2: 358710330948110. Đây là điện thoại N dùng để liên lạc mua ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước;

+ 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Exceiter, biển số 85E1 - X, số máy: G3M5E179869, số khung: RLCƯG1210NY0900952, là xe mô tô của Huỳnh Văn N sử dụng làm phương tiện. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Tại phiên tòa bị cáo Huỳnh Văn N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã khai tại Cơ quan điều tra, thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo là đúng và không kêu oan, chỉ mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Tại bản Cáo trạng số: 66/CT-VKS-HS ngày 24-10-2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố Huỳnh Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự;

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu quan điểm luận tội, sau khi phân tích các tài liệu chứng cứ đã được thu thập trong quá trình điều tra cũng như diễn biến của phiên tòa vẫn đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm s (Thành khẩn khai báo) khoản 1, khoản 2 (Có người thân có công với cách mạng) Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015; đề nghị xử phạt bị cáo Huỳnh Văn N từ 18 (Mười tám) tháng tù đến 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 14-8-2023;

Áp dụng: Điều 46, Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Về thu giữ và xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tạm giữ và xử lý như sau:

+ Khối lượng mẫu M1 là 0,3624g (Không phẩy ba sáu hai bốn gam), M2 là 2,2361g (Hai phẩy hai ba sáu một gam), cùng toàn bộ bao gói gửi giám định hoàn lại theo Kết luận giám định số 183/KL-KTHS ngày 21/82023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận. Đề nghị tịch Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy;

+ 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, số IMEI: 358710330498074, số IMEI 2: 358710330948110. Đây là điện thoại N dùng để liên lạc mua ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước;

+ 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Exceiter, biển số 85E1 - X, số máy: G3M5E179869, số khung: RLCƯG1210NY0900952, là xe mô tô của Huỳnh Văn N sử dụng làm phương tiện. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát xét thấy xe mô trên không phải bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội, nên đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo Huỳnh Văn N.

Hiện số vật chứng trên được bảo quản tại Kho vật chứng Công an huyện N.

- Đối với người tên “Lộc” bán ma túy cho Huỳnh Văn N: Hành vi của “Lộc” có dấu hiệu của tội mua bán trái phép chất ma túy, xảy ra trên địa bàn huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã thông báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận để điều tra xử lý theo thẩm quyền là đúng quy định, đề nghị Hội đồng xét xử không xét đến.

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án: Bị cáo Huỳnh Văn N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng truy tố, không tranh luận về tội danh, xử lý vật chứng.

Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện N, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Xác định tội danh, khung hình phạt đối với bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng truy tố, lời nhận tội của bị cáo phù hợp các chứng cứ khách quan được thu thập có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 14-8-2023, Bản kết luận giám định số: 183/KL-KTHS ngày 21-8-2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận và các chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên có đủ cơ sở để xác định được: Huỳnh Văn N là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Bản thân Huỳnh Văn N là người nghiệm ma túy, để thỏa mãn nhu cầu của bản thân, ngày 11-8-2023 Huỳnh Văn N đã đi mua ma túy về mục đích để sử dụng, ngày 14-8-2023 Huỳnh Văn N mang ma túy trong túi áo khoắc đi từ nhà ở N đến Phú Qúy thì bị phát hiện bắt quả tang và thu giữ 2,88995g ma túy Methamphetamine.

Tại Bản kết luận giám định số 183/KL- KTHS ngày 21-8-2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận kết luận:

Chất tinh thể trắng (ký hiệu M1, M2) gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là:

M1 : 0,4525g (Không phẩy bốn năm hai năm gam);

M2: 2,4370g (Hai phẩy bốn ba bảy không gam).

Hành vi của bị cáo Huỳnh Văn N đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện N là đúng pháp luật.

[3]. Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, tội phạm bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy đồng thời là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác nên cần phát xử lý nghiêm mới có dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4]. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm”, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5]. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo còn có thân nhân là ông Huỳnh Văn Chẻo (Ông nội), bà Nguyễn Thị Biếu (Bà ngoại) là những người có công với cách mạng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6]. Quyết định mức hình phạt đối với bị cáo: Tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng, mục đích bị cáo mua ma túy là để sử dụng cho bản thân. Bị cáo là người đã thành niên biết rõ tác hại của ma túy đối với con người và đời sống xã hội, nhưng vẫn cố tình phạm tội.

Xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, mới có tác dụng để răn đe, giáo dục bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật và các quy tắc của cuộc sống đồng thời có tác dụng phòng ngừa và đấu tranh phòng chống tội phạm.

[7]. Xử lý vật chứng:

+ Khối lượng mẫu M1 là 0,3624g (Không phẩy ba sáu hai bốn gam), M2 là 2,2361g (Hai phẩy hai ba sáu một gam), cùng toàn bộ bao gói gửi giám định hoàn lại theo Kết luận giám định số 183/KL-KTHS ngày 21/82023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận, nên tịch thu tiêu hủy;

+ 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, số IMEI: 358710330498074, số IMEI 2: 358710330948110. Đây là điện thoại N dùng để liên lạc mua ma túy, nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước;

+ Đối với 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Exceiter, biển số 85E1 - X, số máy: G3M5E179869, số khung: RLCƯG1210NY0900952, là xe mô tô của Huỳnh Văn N, chỉ dùng làm phượng tiện đi lại, không phải dùng làm phương tiện phạm tội, nên trả lại cho Huỳnh Văn N.

Vật chứng trên được bảo quản tại kho của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 27-10-2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

[8]. Đối với người tên “Lộc” bán ma túy cho Huỳnh Văn N: Hành vi của “Lộc” có dấu hiệu của tội mua bán trái phép chất ma túy, xảy ra trên địa bàn huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã thông báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận để điều tra xử lý theo thẩm quyền là đúng quy định, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[9]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án: Bị cáo Huỳnh Văn N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Văn N 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 14-8-2023.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng: Điều 46, Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy: Khối lượng mẫu M1 là 0,3624g (Không phẩy ba sáu hai bốn gam), M2 là 2,2361g (Hai phẩy hai ba sáu một gam), cùng toàn bộ bao gói gửi giám định hoàn lại theo Kết luận giám định số 183/KL-KTHS ngày 21/82023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận. Tất cả được bỏ vào phong bì dán kín, đóng dấu tròn của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận, có chữ ký xác nhận của Lê Ngọc Thư, Đinh Quang Tuân, Trịnh Đình Quân, Trần Đức Lương.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, số IMEI 1: 358710330498074, số IMEI 2: 358710330948110. được bỏ vào phong bì niêm phong dán kín, bên ngoài có chữ ký của Nguyễn Thành Tín, Nguyễn Văn N, Phạm Nguyên Huy, Huỳnh Văn N, Nguyễn Tấn N.

- Trả lại cho bị cáo Huỳnh Văn N 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Exceiter, biển số 85E1 - X, số máy: G3M5E179869, số khung: RLCUG1210NY090952. Được niêm phong bằng cách dán giấy A4 lên phần ổ khóa xe, trên giấy có chữ ký của Huỳnh Văn N, Nguyễn Văn N, Nguyễn Tấn N, Phạm Xuân H. (Có chìa khóa xe) (Niêm phong còn nguyên vẹn, không kiểm tra tình trạng bên trong của tất cả các gói niêm phong trên).

Vật chứng trên được bảo quản tại kho của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 27-10-2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án: Buộc bị cáo Huỳnh Văn N phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai có mặt bị cáo, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 30-11-2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

76
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 67/2023/HS-ST

Số hiệu:67/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Sơn - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về