Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 67/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 67/2022/HS-ST NGÀY 09/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 3 năm 2022 tại Hội trường A trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2022/HSST ngày 12 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2022/QĐXXST-HS ngày 10/02/2022 đối với các bị cáo.

1. Trương Công B, sinh năm 1989 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: 179/6A khu phố C, phường H, Thành phố K, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế (lái xe); trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Trương Chí C (đã chết) và con bà Phạm Thị Bích H, sinh năm 1962; bị cáo có vợ tên Trần Thị Ngọc Y, sinh năm 2000 và có 01 con sinh năm 2020; tiền sự, tiền án: Không có.

Nhân thân:

+ Ngày 20/10/2006, bị Tòa phúc thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”, theo bản án số 1638, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/11/2009.

+ Ngày 22/5/2014, Toà án nhân dân thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo bản án số 168, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/5/2016, Bị cáo bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 29/7/2021, có mặt.

2. Trương Minh P, sinh ngày 16/01/2002 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: 04/10A khu phố P, phường B, Thành phố K, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Trương Minh P1, sinh năm 1972 và con bà Trần Thị Tuyết L, sinh năm 1980; bị cáo có vợ tên Trần Ngọc Thu T, sinh năm 2002 và có 01 con sinh năm 2020; tiền sự, tiền án: Không có.

Bị cáo bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 29/7/2021, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Trương Thanh M, sinh năm 1993; thường trú: 179/6A khu phố C, phường H, Thành phố K, tỉnh Bình Dương, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Trương Công B, Trương Minh P là bạn. Vào lúc 18 giờ 30 phút ngày 29/7/2021, B sử dụng điện thoại di động sim số 0933.075.108 gọi điện cho P theo số 0977.132.568 để đi mua ma túy sử dụng (tiền mua ma túy cả hai chịu). Sau đó B điện thoại cho một người không rõ nhân thân qua mạng xã hội Zalo mua 03 viên thuốc lắc với giá 550.000 đồng và hẹn giao tại đường Mỹ Phước – Tân Vạn, phía sau nhà P, khi người này mang ma túy đến đã điện thoại cho B, B điện thoại cho P ra lấy. Sau đó P về nhà đợi B chở qua phòng trọ của B sử dụng ma túy. Khi cả hai điểu khiển xe mô tô biển số 61D1-716.67 lưu thông đến trước Công ty Việt Nhật trên đường Lê Hồng Phong, khu phố Chiêu Liêu, phường Tân Đông Hiệp, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương bị lực lượng Công an kiểm tra hành chính thu giữ trên yên xe mô tô khoảng giữa nơi B, P ngồi có 01 khẩu trang y tế màu xám bên trong chứa 01 túi nylon miệng kéo dính chứa 03 viên nén hình chữ nhật màu xám (B và P khai nhận là ma túy) nên bị lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ: 01 khẩu trang y tế màu xám bên trong chứa 01 túi nylon miệng kéo dính chứa 03 viên nén hình chữ nhật màu xám; 01 xe mô tô biển số 61D1- 716.67; 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS màu hồng sim số 0933.075.108 (thu giữ của B); 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh sim số 0977.132.568 (thu giữ của P).

Kết luận giám định số 506/MT-PC09 ngày 06/8/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng/trọng lượng 1,6814 loại MDMA.

Vật chứng đã xử lý: Xe mô tô biển số 61D1-716.67 là tài sản của anh Trương Thanh M (em bị cáo B), anh M không biết B mượn xe đi mua ma túy về sử dụng. Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An đã trả lại xe cho anh M.

Cáo trạng số 40/CT-VKS - DA ngày 10/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Trương Công B, Trương Minh P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ:

+ Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo B từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

+ Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo P từ 1 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy ma túy còn lại sau giám định, sim số điện thoại; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước điện thoại di động của bị cáo B, P.

Bị cáo Trương Công B, Trương Minh P không tranh luận, bào chữa cho hành vi phạm tội của mình. Trước khi hội đồng xét xử vào nghị án, các bị cáo nói lời sau cùng. Xin được xem xét giảm nhẹ mức hình phạt thấp nhất.

Anh Trương Thanh M không tranh luận, bảo vệ quyền lợi cho mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra các bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ xác định các bị cáo phạm tội: Bị cáo Trương Công B, Trương Minh P sử dụng ma túy, ngày 29/7/2021 B, P đi mua 1,6814 gam ma túy loại MDMA để sử dụng thì bị bắt giữ. Như vậy, hành vi trên của bị cáo B, P đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng số 40/ CT – VKS ngày 10/01/2022 của Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo cũng như bản luận tội của Kiểm sát viên đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo B, P không có.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tình tiết trên được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về nhân thân: Bị cáo P có nhân thân tốt thể hiện việc không có tiền án, tiền sự. Bị cáo B có nhân thân xấu thể hiện việc nhiều lần bị xét xử phạt tù về tội “Cướp tài sản” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

[6] Về tính chất mức độ tội phạm: Bị cáo B, P phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 05 năm tù, các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện phạm tội một cách cố ý. Hành vi phạm tội của các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, hiện nay hành vi mua bán trái phép chất ma túy, sử dụng trái phép chất ma túy diễn ra nhiều và phức tạp việc này ảnh hưởng lớn đến sự an toàn, an nguy của xã hội. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức án tù có thời hạn tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[7] Trong vụ án có đồng phạm, nhưng là đồng phạm giản đơn do các bị cáo không có sự phân công, bàn bạc cụ thể. Do vậy, không xem xét là phạm tội có tổ chức, các bị cáo cùng là người thực hành trong vụ án, do vậy mức hình phạt phải ngang nhau, tuy nhiên bị cáo B có nhân thân xấu, do vậy, mức hình phạt bị cáo B cao hơn so với P.

[8] Về vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ ma túy còn lại sau giám định, sim số điện thoại của bị cáo P, B cần tịch thu tiêu hủy. Đối với điện thoại của bị cáo B, P liên quan, sử dụng vào việc phạm tội, cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước [9] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, việc xử lý vật chứng, mức hình phạt bị cáo P phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận. Riêng mức hình phạt bị cáo B có phần nghiêm khắc.

Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo B mức hình phạt thấp hơn so với mức hình phạt Đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

[10] Án phí sơ thẩm: Bị cáo B, P phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Trương Công B, Trương Minh P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1.1 Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trương Công B 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù.

1.2 Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trương Minh P 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù đối với bị cáo B, P tính từ ngày bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 29/7/2021.

2. Các biện pháp tư pháp.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư được niêm phong ghi số vụ 506/MT-PC 09 bên trong chứa 0,8028 gam ma túy loại MDMA, là mẫu vật còn lại sau giám định; sim số điện thoại 0933.075.108 và sim số 0977.132.568 Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS màu hồng; 01 điện thoại Nokia màu xanh.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/01/2022 tại Chi cục thi hành án Dân sự Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14.

Bị cáo Trương Công B, Trương Minh P mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 67/2022/HS-ST

Số hiệu:67/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:09/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về